Không kịp nói yêu em – Chương 20

      Chương 20

 

 Báo cáo chiến sự cuối cùng của tiền tuyến đến vào buổi chiều. Sau khi Thừa quân giả vờ thất bại, Dĩnh quân quả nhiên trúng kế. Lúc này trải qua chiến đấu kịch liệt ngày đêm, Thừa quân đoạt lại Hà Gia Khẩu, công kích Tử Bình, Phụng Minh, còn tuyến Tây vừa tấn công Chương Đức, đoạt lại quyền khống chế đường sắt Thừa – Dĩnh. Dĩnh quân đã mất cửa ải Phụng Minh, đang lùi về sâu hơn mười cây số, lùi về trấn thủ tại Tấn Hoa, mà phòng tuyến phía sau Tấn Hoa là Phụ Thuận – thị trấn quân sự trọng yếu, Phụ Thuận là cửa ngõ của Càn Bình, cho nên trận đánh này đã làm lung lay gốc rễ của Dĩnh quân. Lập tức trong và ngoài nước chấn động, ngay cả chiến hạm nước ngoài cũng từ cảng Bắc Loan đi xuống phía Nam, tuần tiểu quan sát chiến cục từ xa.

   

 

 Mô Dung Phong cầm báo cáo đại thắng, nhưng không hề mừng rỡ khôn xiết, vì lần này bố trí chu đáo trong thời gian dài, hơn nữa xiết hai gọng kiềm Đông Tây, cùng Hộ Quốc quân bao vây tiêu diệt, đương nhiên không thể thất bại. Các thư kí bận rộn sắp xếp các công việc như: tiếp nhận đầu hàng, bố trí tù binh, tước vũ khí, đoạt quân nhu…Tuy vẫn rất bận, nhưng trong sự bận rộn đó có sự ung dung đã được định liệu trước.

 

 

Mộ Dung Phong họp xong là quay về phòng làm việc của mình, vì báo cáo chiến sự phía Tây liên tục được chuyển đến, cho nên anh đến đó đọc trước. Hà Tự An tuy là thư kí riêng của anh, nhưng tham dự quân chính, cũng là một trợ tá quan trọng. Lúc này anh ta nghe thấy một việc quan trọng, nên đến gặp anh ngay, Hà Tự An có rất nhiều điều muốn nói, thấy Mộ Dung Phong cúi đầu chăm chú nhìn tờ bản đồ quân sự trải trên bàn liền gọi: “Cậu Sáu”.

 

 

Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, không ngẩn đầu lên, Hà Tự An biết tính khí của anh ta, không dám nói thẳng từ xa đã nói lòng vòng: “Nếu chiến sự thuận lợi, muộn nhất là tháng sau quân ta sẽ chiếm Dĩnh Châu, lúc đó mười sáu tỉnh Giang Bắc đều lọt vào tay Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong ngẩn đầu lên nhìn anh ta một cái, nói: “Muốn nói gì thì nói đi”.

 

 

Hà Tự An nói: “Chẳng lẽ cậu Sáu định chia đôi giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp, yên ổn với một nửa giang sơn?”

 

 

          Mộ Dung Phong đáp: “Vĩnh Giang là nơi hiểm yếu khó vượt qua, hơn nữa đánh trận này nguyên khí của chúng ta phải cần một thời gian dài mới hồi phục được. Chính phủ Xương Nghiệp biết rõ điểm này mới mặc cả với tôi”. Anh dừng lại một lúc, nói tiếp: “Ngày đó ở Càn Bình lúc Trình Tín Chi thay mặt Trình gia đàm phán với tôi, tôi đã đồng ý với anh ta, sẽ tuân thủ lập hiến, công nhận chính phủ Xương Nghiệp, tiếp nhận quân hàm của chính phủ Xương Nghiệp. Biện pháp bề mặt đó, hát kịch vẫn phải hát cho đủ”.

 

 

        Hà Tự An do dự nói: “Nếu Trình gia chịu ủng hộ Cậu Sáu, vậy nội các Xương Nghiệp có cũng như không”. Mộ Dung Phong cười nói: “Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc hào thương cự phú, Trình Doãn Chi lại quá láu cá, giỏi nhất là tính toán được mất, sao chịu bỏ Xương Nghiệp ủng hộ tôi?”.

 

 

Hà Tự An trong lòng có kế hoạch, nhưng xưa nay biết Mộ Dung Phong trẻ tuổi háo thắng, lại thích thể diện, luôn thích mềm mỏng không thích cứng rắn, cho nên lại chuyển đề tài hai người nói chuyện thời cuộc một lát, lại lan qua chuyện cung cấp vật tư thời nghị chiến. Hà Tự An đang dần dần nghĩ cách dẫn đến đề tài ấy, bỗng Thẩm Gia Bình gõ cửa đi vào, thì thầm với Mộ Dung Phong gì đó. Mộ Dung Phong liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”. Thẩm Gia Bình lộ vẻ khó xử, Mộ Dung Phong biết rõ anh ta cũng  chẳng có cách nào, đứng dậy lấy một quyển công văn trong tủ cầm trên tay nói: “Vậy tôi đi xem xem”.

 

 

        Hà Tự An thấy thời cơ không ổn ,vội nói: “Cậu Sáu tôi vẫn còn lời muốn nói. Mộ Dung Phong đã vội vã ra đến cửa, quay đầu lại nhìn nói: “Đợi tôi quay lại rồi nói”. Hà Tự An đuổi theo mấy bước nói: “Cậu Sáu xin dừng chân, Tự An có mấy câu quan trọng muốn nói với cậu Sáu”. Mộ Dung Phong khua khua tay biểu thị anh về rồi hãy nói, người đã được cảnh vệ vây lấy đi rất xa. Hà Tự An đàng đứng tại đó, kéo Thẩm Gia Bình hỏi: “Có phải là Doãn tiểu thư có chuyện không?”. ThẩmGia Bình cười nói: “Cũng không hẳn”. Hà Tự An trong lòng có biết bao điều muốn nói, giờ thấy vậy đành thầm tính chuyện của mình.

 

 

     Mộ Dung Phong đi vào phòng, thấy một chiếc hộp sơn đỏ đặt trên bàn trà, mấy món ăn bên trong còn nguyên chưa ai động đũa, cửa gian trong vẫn đóng kín. Anh đẩy cửa ra đi vào, chỉ thấy Tĩnh Uyển như lúc sáng, ôm đầu trong chăn, ngủ không nhúc nhích, tư thế hầu như kgông thay đổi. Anh rón rén lại gần, đến tận chiếc giường, đưa tay ra sờ trán cô, cô lại quay mặt đi trốn, anh cười nói: “Anh tưởng em ngủ đấy”. Cô coi như không nghe thấy, vẫn nằm ở đó, anh liền ngồi xuống một bên giường, đẩy cô nhè nhẹ: “Được rồi coi như anh sai, em cũng tức giận cả ngày rồi, chuyện khác không nói, nhưng cơm vẫn ăn chứ”.

 

 

Sống lưng cô cũng căng lên, cô vẫn không thèm để ý, anh yên lặng một lúc, nói: “Rốt cuộc là em không tin anh, vậy thần linh chứng giám, nếu anh phụ em thì tan xương nát thịt, chết chẳng yên lành”. Cô định không thèm để ý đến anh, nhưng quả thật không kìm được, lật mình ngồi dậy: “Người dẫn quân đánh giặc, sao không biết kiêng kỵ gì hết?”. Tuy khẩu khí vẫn còn lạnh nhạt, nhưng vẫn khiến Mộ Dung Phong cười: “Nếu em thật sự không để ý đến anh cả đời, anh thà chết đi còn hơn”.

 

 

Tĩnh Uyển tức giận nói: “Anh còn nói, anh còn nói”.

 

 

Anh lại tươi cười hớn hở: “Hóa ra em vẫn sợ anh chết”.

 

 

Tĩnh Uyển bị anh kích thích như thế, tức sôi máu, vênh mặt lên: “Ai sợ anh chết, cho dù anh chết vạn lần cũng không liên quan đến em”. Anh cười nói: “Anh không nỡ chết ấy, anh chết rồi em phải làm sao?”. Tĩnh Uyển hứ một tiếng nói: “Mặt dày, vô liêm sỉ”. Anh vẫn cười: “Đối với em anh thà vô liêm sỉ một chút”.

 

 

Anh thành thật thừa nhận như thế, thật khiến Tỉnh Uyển bất ngờ, sững sờ một lát, lúc sau mới nói: “Hừ không sợ người khác nghe thấy”. Anh ôm lấy eo cô, mỉm cười nói: “Ngoài em ra ai dám nghe chứ?”. Tĩnh Uyển cố kéo mặt ra, Mộ Dung Phong, nói: “Không chịu được thì cười đi. Sao cứ phải nhịn khổ sở như thế?”. Tĩnh Uyển liếc xéo anh một cái, nói: “Ai nói em muốn cười?”. Tuy nói như thế, nụ cười cũng dần ánh lên từ đáy đôi mắt, cô đẩy anh: “Tránh ra, nhìn anh là thấy ghét rồi”.

 

 

Mộ Dung Phong cười: “Anh bận như thế còn dành thời gian đến thăm em, em lại nói anh đáng ghét, anh sẽ để ghét cả đời đấy”. Tĩnh Uyển mắng: “Anh đừng xoen xoét cái miệng, em bực thật rồi đó”. Anh cười nói: “Anh nói nghiêm túc mà”. Anh đưa tập văn kiện cho cô xem, hóa ra là giấy chứng nhận kết hôn sao thành hai bản. Phía trên tên người làm chứng, người chủ hôn đã có chữ kí, dùng con dấu riêng họ đều là tướng lĩnh cao tiền bối đức cao vọng trọng trong thành Vĩnh Tân, phía dưới tên người đàn ông, anh cũng đã kí tên đóng dấu, chỉ có phần tên của người phụ nữ là để trống.

 

 

Đầu ngón tay cô lạnh băng, lòng bàn tay anh ấm nóng, nắm chặt lấy tay cô, anh đọc từng câu một cho cô nghe: “Mộ Dung Phong, Doãn Tĩnh Uyển đính ước trọn đời, kết thành vợ chồng, nguyện sống hòa thuật hạnh phúc”. Anh đọc rất chậm, từng chữ từng chữ, giọng nói đó mang theo sự mừng rỡ, mỗi chữ cô đều nghe rõ như thế, nhưng dường như cũng chưa nghe rõ, sức lực toàn thân bị rút đi, cứ yếu ớt dựa vào anh. Còn anhdùng cánh tay ôm chặt lấy cô, dường như sợ hễ buông tay ra là cô biến mất.

 

 

Ngày tháng năm sinh của anh, tên họ anh, ngày tháng năm sinh của cô, quê quán tên họ, tên người làm chứng, tên người giới thiệu tên người chủ hôn…những nét chữ khải chi chít viết trên tờ giấy kết hôn màu hồng, cô xưa nay thấy màu hồng rất quê, nhưng hôm nay màu hồng ấm áp như ánh sáng, mơ hồ phát ra ánh nắng ấm áp, trong tim cô có một cảm giác không thể diễn tả được, thích thú đến cực điểm, lại xen lẫn một cảm giác bi thương, luôn cảm thấy thời khắc này dường như không chân thật. Cô nắm chặt lấy một góc giấy chứng nhận kết hôn đó, mỉm cười nói: “Em phải nghĩ cho kĩ, hễ kí vào là em mang họ Mộ Dung đấy”.

 

Cô ngẩng mặt lên nhìn anh, trong mắt anh chỉ có sự dịu dàng như nước, nhìn cô chăm chú vượt đường xa tới đây, hai người đều rất khổ sở, anh đợi cô lâu như vậy, cô cũng mù mờ tìm lâu như vậy, giờ mới biết hóa ra là anh,đời này hóa ra là anh.

 

 

Cô vùi mặt vào lòng anh, anh ôm chặt lấy cô, giống như giây phút trùng phùng, nhưng khoảnh khắc này càng ngọt ngào hơn, càng chắc chắn hơn. Lâu như vậy xa như vậy, từ lần đầu gặp mặt đến bây giờ, cách lâu như vậy ở giữa nhiều người như thế, nhiều chuyện như thế, rốt cuộc anh đã đợi được cô.

 

Giọng nói anh như trong mơ: “Tĩnh Uyển em còn nhớ không…”. Cô “ừ”một tiếng, anh không nói tiếp, cô không hề truy hỏi, thật ra mọi thứ đối với cô giờ như mơ, cho dù bây giờ rõ ràng là đang ôm nhau, nhưng vì đợi nhau quá lâu nên cảm giác ngọt ngào này như giấc mơ. Nhưng giấc mơ này ngọt ngào say đắm như thế, anh nào nỡ nghĩ ngợi nhiều. Trái tim bình yên thanh thản, vì biết rõ cô là của anh, biết rõ đời này kiếp này cô là của anh. Nụ cười cô ngọt ngào như thế, hai con mắt đen láy trong suốt, trong đó chỉ có bóng hình anh. Trên môi cô hơi thở ngọt ngào, anh hôn lên khóe môi cô: “Đợi đánh trận xong, anh sẽ cho em một hôn lễ lớn nhất, anh muốn cho cả thế giới biết hai ta hạnh phúc nhường nào”.

 

 

Hà Tự An vốn rất trầm tính, hôm nay không biết vì sao đứng ngồi không yên, khoanh tay đi đi lại lại trong phòng, đi lại mấy lượt lại nhìn đồng hồ trên tường. Căn phòng lớn làm việc này là nơi xử lý việc quân của Mộ Dung Phong, trên tường treo mấy bức bản đồ quân sự, trên bàn đặt một núi báo cáo quân sự, điện báo công văn đến và đi, ngoài ra còn mắc mấy chiếc điện thoại. Cách bài biện rối ren ấy khiến người ta nhìn vào cảm thấy ngột ngạt.

 

 

    Hà Tự An ngồi một lát, đứng dậy bước vài bước, nghe tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ trên tường, trong lòng càng khó chịu. Nghĩ một lát cuối cùng anh đi ra ngoài, men theo hành lang đi thẳng về phía sau. Sắc trời đã tối, trong căn nhà ngang phía sau có một vườn hoa nho nhỏ, cây cối xanh tốt. Thẩm Gia Bình đang ngồi đó, vừa ngân nga khúc dân ca vừa bốc lạc ăn, thấy anh đi vào liền chào một tiếng. Hà Tự An nhìn vế phía sau, phía sau là một tầng sân nữa, cảnh vệ đứng gác cổng, có thể thấy thị vệ đi lại thấp thoáng tuần tra bên trong. Hà Tự An hỏi Thẩm Gia Bình: “Sớm như vậy Cậu Sáu đã đi ngủ rồi?”.

Thẩm Gia Bình nói: “Mới ăn tối xong, lát nữa đưa Doãn tiểu thư lên phố mua đồ. Xem ra năm nay sẽ tổ chức đám cưới thật rồi”. Hà Tự An nghe nói câu này, không khỏi cảm thấy tiếc nuối, thở dài một tiếng, dùng tay bóp vỏ lạc, ấn đến bẹp dí, cuối cùng vổ tay, phủi hét vụn nhỏ, nói: “Không ngờ Doãn tiểu thư này có thể tu thành chính quả”. Thẩm Gia Bình nói: “Tuổi của Cậu Sáu cũng nên kết hôn lâu rồi, mấy lão phu nhân cứ nói hoài, chỉ là cậu ấy không buồn nghe. Lần trước đi Càn Bình gặp người của Trình gia, nguy hiểm như thế lại nhất định phải đi gặp Doãn tiểu thư, không phải anh nói Cậu Sáu yêu thật lòng rồi sao?”.

 

 

Hà Tự An nói: “Yêu là yêu, kết hôn là kết hôn, đây là hai chuyện khác nhau”. Thẩm Gia Bình cười ha ha, nói: “Dựa theo pháp luật, coi như họ đã kết hôn rồi”. Hà Tự An nói một câu vô thưởng vô phạt: “Bây giờ là xã hội dân chủ, đương nhiên phải dựa theo pháp luật rồi”. Tâm trạng anh vốn rất tệ, nhưng bây giờ bỗng có chút tinh thần: “Doãn tiểu thư đến cũng tốt, việc ăn ở của Cậu Sáu vốn cần người lo liệu, phụ nữ vốn cẩn thận chu đáo, tốt hơn nhiều so với cảnh vệ. Ngày đó không phải đại soái luôn khen Tứ phu nhân là: “Tùy quân phu nhân”* sao? Hơn nữa bình thường Cậu Sáu luôn nhớ nhung cô ấy, cuối cùng đã được ở bên nhau, Cậu Sáu cũng bớt lo lắng nhiều”.

 

 

Vì tính khí Mộ Dung Phong không tốt, gần đây việc quân bận rộn, đương nhiên lại càng nóng nảy, cho nên các cảnh vệ hay bị ăn mắng, từ sau khi Tĩnh Uyển đến, Thẩm Gia Bình dường như trút được gánh nặng. Huống hồ Tĩnh Uyển là con gái, thân ở trong quân đội mà không hề ngạo mạn, thường mặc đồ nam đi theo Mộ Dung Phong. Hai tuyến Nam Bắc Thừa quân đồng thời chiến đấu vô cùng vất vả, còn cô cùng Mộ Dung Phong đi lại khắp các hành dinh, chạy hàng ngàn cây số, trong mưa bom lửa đạn không rời nửa bước, cho nên không ít tướng lĩnh bên cạnh Mộ Dung Phong đầu tiên lườm nguýt, sau đó hoài nghi, cuối cùng hễ nhắc đến “phu nhân” là không kìm được khen ngợi, bái phục không thôi. Ngay cả phóng viên nước ngoài cũng đăng ảnh chụp chung của cô và Mộ Dung Phong lên báo Tây, khen “Mộ Dung phu nhân cũng anh hùng”.

 

 

Cho nên hôm đó Tôn Kính Nghi cảnh vệ đi theo Thẩm Gia Bình : “Không biết vì chuyện gì mà phu nhân ngồi khóc ở đó”. Thẩm Gia Bình nói: “Vớ vẫn sao phu nhân lại khóc!”. Nói xong lại cảm thấy tuy cô kiên cường rốt cuộc vẫn chỉ là phụ nữ, câu nói của mình cũng quá võ đoán, liền hỏi: “Vì sao khóc?”.

Tôn Kính Nghi nói: “Hôm trước đánh Phụ Thuận, thu hoạch được rất nhiều thứ, đều chất cả trong kho. Mấy ngày nay phu nhân quá buồn chán, rồi đến kho tiện lấy hai quyển sách và mấy tờ báo cho phu nhân xem, không biết vì sao, vừa nãy tôi thấy phu nhân ngồi ở đó một mình, lặng lẽ khóc”.

 

Thẩm Gia Bình biết tính cách Tĩnh Uyển rất kiên cường, có lần ngã xuống từ lưng ngựa cũng không thấy cô đỏ mắt, nên nghe Tôn Kính Nghi nói vậy, trong lòng thấy hơi lo lắng. Anh nghĩ một lát nói: “Cậu Sáu còn đang họp, tôi đến xem phu nhân có gì dặn dò không”.

 

 

Đại quân tiến xuống phía Nam, lúc này hành dinh đặt tại thị trấn nhỏ Thanh Bình cách Phụ Thuận chỉ ba bốn cây số, vì nơi đóng quân không đủ, cho nên trưng dụng nhà quan chức về hưu của địa phương làm hành dinh. Thị trấn Thanh Bình tuy không lớn, nhưng từ xưa là trạm dịch trọng yếu, cho nên tuy là nhà dân, nhưng rất nhiều giếng trời, lớp lớp sân vườn, rộng rãi và hoa lệ. Trong chiếc sân phía trước căn nhà Tĩnh Uyển có thể đặt hàng trăm chậu hoa cúc, chen chúc như biển hoa. Thẩm Gia Bình từ xa đã nhìn thấy Tĩnh Uyển đứng trước cửa sổ, lặng lẽ nhìn biển hoa như gấm nhung. Bọn họ luôn kính trọng Tĩnh Uyển, vậy nên vừa vào phòng đã lập tức hành lễ: “Phu nhân”.

 

 

Bình thường Tĩnh Uyển rất ít khi dùng son phấn, những khi bôn ba hầu như cô đều mặt đồ nam, lúc này vì trong hành dinh nên cô mặc chiếc sườn xám nhung màu xanh thẳm hết sức bình thường, trên mặt phủ một lớp phấn mỏng, tuy thế vẫn có thể nhận ra khóe mắt hoe đỏ. Thẩm Gia Bình đang suy tính, Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh liền gượng cười, nói: “Hôm nay tôi hơi mệt, anh đừng nói với Cậu Sáu”.

 

 

       Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ cô, dường như vô cùng đau lòng, nhưng anh chỉ là đội trưởng cảnh vệ, rất nhiều việc không tiện hỏi, đành đáp: “Nếu có chuyện gì, phu nhân có thể giao Gia Bình làm”. Tĩnh Uyển “ừ”một tiếng, một lúc sau mới hỏi anh: “Theo anh lúc nào mới có thể tấn công Càn Bình?”. Thẩm Gia Bình nghe cô hỏi vậy, vô cùng bất ngờ, vì tuy cô ở trong quân đội, nhưng chưa từng hỏi việc quân, bình thường đa phần bận mấy việc vặt như thăm hỏi quân lính hay cầm máu…anh chần chừ đáp: “Việc tiền tuyến rất khó nói, cũng không quá mấy ngày đâu”.

 

 

Tĩnh Uyển lại “ừ”một tiếng, Thẩm Gia Bình tinh mắt, thấy một tờ báo đặt trên chiếc bàn bằng gỗ lê,cầm lên xem, thấy đó là một tờ “Dĩnh Châu nhật báo”, mấy ngày trước mặt báo có cáo thị màu đen rất bắt mắt: “Tuyên bố đoạn tuyệt cha con Doãn Sở Phàn và Doãn Tĩnh Uyển”, anh đọc lướt thấy giọng điệu rất gay gắt, nói: “Đứa con gái hư đốn bỏ nhà bỏ nước là bất trung, hủy hôn ra đi là bất nghĩa, không nói với cha mẹ là bất hiếu”, lại viết “Kẻ bất hiếu, bất trung, bất nghĩa không thể là gia tộc Doãn thị, cho nên tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con”.

 

 

          Tĩnh Uyển thấy anh đọc báo, cười thê lương nói: “Bái Lâm sắp về rồi, anh đem cái này đi, đừng để anh ấy nhìn thấy”. Từ lúc Thẩm Gia Bình quen biết cô, chưa từng thấy vẽ mặt cô như vậy, trong lòng buồn rầu, nói nhỏ: “Việc này vẫn nên nói với Cậu Sáu thì hơn, phu nhân chịu đựng tủi nhục như vậy, đến lúc đó Cậu Sáu có thể ra mặt giải thích rõ ràng”.

 

 

     Trong mắt Tĩnh Uyển ngân ngấn lệ, quay mặt đi nói nhỏ giống như thì thầm một mình: “Ngay cả cha mẹ tôi cũng không cần tôi nữa, còn gì đáng để giải thích chứ?”.

 

 

Không kịp nói yêu em – Chương 19

Chương 19

Tối đó họ vẫn ngủ nhờ nhà mấy người nông dân, vì trên đường mệt mỏi nên Tĩnh Uyển ngủ say, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, thấy hơi lạnh, cô đi đến cửa sổ mới biết là trời mưa. Trời hỡi mưa như thế là rất lầy lội khó đi, Nghiêm Thế Xương vốn định tạnh mưa mới đi nhưng mưa mùa thu, lúc mưa lúc tạnh, đến gần trưa vẫn rả rích không ngừng.Thời gian bỏ lỡ trên đường càng dài thì càng nguy hiểm, may mà sau buổi  trưa trời mưa nhỏ dần, họ bèn đội mưa lên đường.

 

Tĩnh Uyển mặc áo mưa, đội chiếc nón che gần hết mặt, cô chưa từng mặc áo mưa, chỉ thấy mùi cây trẩu rất khó chịu. Đi được mười cây số trời lại mưa to hơn, áo mưa vừa ướt lại vừa nặng, quần áo bên trong cũng ướt gần hết, lạnh lẽo như dính vào da thịt, khiến cô không khỏi run rẩy. Nghiêm Thế xương rất lo lắng nhưng trời mưa đường trơn, lừa đi rất chậm nên chẳng còn cách nào khác. Đến chiều từ đường núi nhìn ra xa thấy những ngôi nhà lớn trong núi, trong màn mưa mênh mang giống như một bức tranh thủy mặc vẽ cảnh bốn phía mây mù. Nghiêm Thế Xương chỉ cho cô xem: “Đó chính là Hà Gia Bảo, đi qua ngọn núi chính là núi Kỳ Phong rồi”

 

Tĩnh Uyển phấn trấn tinh thần cười nói: “Coi như sắp đến rồi”. Đường núi khúc khuỷu, nhìn gần ngay trước mặt nhưng đi lại rất xa, đến tận lúc lên đèn họ mới xuống núi, con đường đá xanh thẳng tắp kéo dài đến Hà Gia Bảo. Vì trời mưa nên chỉ có lác đác mấy người trên đường. Họ không ghé vào thị trấn, mà chỉ dừng chân nghỉ ngơi ở bên ngoài, mua bánh ngô làm lương khô.

 

Nghiêm Thế Xương đội nón mặc chiếc áo mưa dầu cũ, lại nói tiếng bản địa, ông chủ cửa hàng nhỏ không hề nghi ngờ, chỉ dẫn cặn kẽ cho anh: “Buổi tối đừng đi đường, năm nay nơi này không yên ổn, lúc thì quân này đánh đến lúc thì quân kia đánh đến, hai người tốt hơn hết là nghỉ  lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên đường”.

 

    Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.

 

Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó, sáng mai lại lên đường”.

 

Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ. Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển, sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.

 

Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm. Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi, lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.

 

Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.

 

Trong tay anh có một khẩu súng ngắn khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần, tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.

 

Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.

 

Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi: “Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây. Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.

 

Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc, biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự lo âu thấp thỏm.

 

Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.

 

Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn, quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.

 

Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”

 

“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến, báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn giận mấy ngày vừa rồi”.

 

Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là binh pháp Tôn Tử”.

 

Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân  của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang dựng súng hành lễ.

 

Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ: “Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp: “Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ, chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.

 

Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ: “Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.

 

Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.

 

Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù, chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.

 

Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên, chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt đều sững sờ.

 

Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi: “Nghiêm Thế Xương”.

 

Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường, vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi, cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.

 

Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu, hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn ngon miệng”.

 

Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.

 

Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh Uyển.

 

Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ, đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.

 

Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.

 

Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.

 

Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”. Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.

Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói: “Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.

 

Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.

 

Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.

 

Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.

 

Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”. Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng, trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ: “Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.

 

Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt mất.

 

Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.

Không kịp nói yêu em – Chương 18

Chương 18

Tĩnh Uyển tiễn Trình Tín Chi về, trái tim mới đập bình thường trở lại. Ngày hôm sau, vì là ngày đại hỷ cho nên hai vợ chồng họ Doãn đều bận chuẩn bị hôn lễ, trong nhà người đông việc nhiều, mấy người chị em họ của Tĩnh Uyển đều đến, ở trên lầu cùng cô. Một đám người nói nói cười cười, bỗng nghe thấy bác Phúc từ ngoài đường hô vọng vào trong, trên tay cầm tờ báo nói: “Đại thắng đại thắng, đánh một trận thắng lớn rồi!’’.

 

Tĩnh Uyễn vội vàng đi lên hai bước, quả nhiên nhìn thấy hàng tít màu đỏ lớn trên trang báo: “Dư Gia Khẩu đại thắng”, cô không kịp nghĩ nhiều, chỉ mãi đọc nội dung bên dưới, chiến đấu kịch liệt hơn mười ngày, Thừa quân cuối cùng không địch được Dĩnh quân, toàn tuyến phía đông tan vỡ. Tĩnh Uyển đọc đến mấy chữ: “Dĩnh quân chiếm đóng Dư Gia Khẩu”, trong đầu “ầm” một tiếng, định thần lại mới nghĩ Dư Gia Khẩu là vùng trọng yếu của Thừa quân, sau Dư Gia Khẩu là Vĩnh Tân, Vĩnh Tân là đại bản doanh phía Nam của Thừa quân bóp chặt yết hầu đường sắt Thừa Dĩnh, bây giờ lại để mất Dư Gia Khẩu, e rằng Vĩnh Tân nguy hiểm chỉ một sớm một chiều. Cô sững sờ đứng đó, Minh Hương vội cầm lấy tờ báo, rót cho cô tách trà nóng.

 

Một người chị họ cười nói: “Tĩnh Uyển nhà ta từ nhỏ đã giống con trai, cho nên không chịu thua kém đấng mày râu, lúc nào cũng quan tâm tin tức quốc sự, e rằng sau này Kiến Chương còn phải chịu lép vế với em ấy”. Một người em họ khác nói: “Báo thì có gì hay, ngày ngày chỉ nói chuyện đánh nhau, nhưng em nghe cha nói, trận đáng này sẽ chóng kết thúc thôi. Tin tức trang đầu hôm nay nói nước Nga tuyên chiến với Thừa quân. Cha nói , Thừa quân lần này trước sau đều có địch, chỉ có thể thua thảm hại”.

 

Chỉ nghe thấy “choang” một tiếng, tách trà trong tay Tĩnh Uyển vỡ tan. Minh Hương giật bắn mình, vội vàng hỏi: “Tiểu thư có bị bỏng không?”. Tĩnh Uyển sắc mặt trắng bệch, nhưng dáng vẻ vẫn trấn tĩnh: “Không”. Minh Hương vội thu dọn mãnh vỡ, miệng còn nói: “Rơi xuống đất nở hoa vinh hoa phú quý”. Một tay Tĩnh Uyển ấn lên ngực, trên mặt đang cười ngẩn ngơ , lẩm bẩm nói: “Em học ai thế, lải nhải như vậy”. Minh Hương bĩu môi: “Còn không phải là bác Ngô, nói trong nhà có việc hỷ, những câu tốt lành nhất định phải nhớ”.

 

Mấy người chị em họ xúm lại coi của hồi môn của cô, khăn trùm đầu, đồ trang sức hết thảy đều mang ra, cầm thứ nào lên là tấm tắc khen thứ ấy, toàn con gái trẻ tuổi tụ tập với nhau nên rất náo nhiệt, huống hồ đang xem trang sức, khen cái này tinh xảo, cái kia quý, trên trán Tĩnh Uyển lấm tấm mồ nôi lạnh, tiếng cười nói ồn ã cả căn phòng, vang lên trong tai như xa như gần vo ve như tiếng ong. Cô trấn tĩnh vì tổ chức hôn sự nên cả phòng đều treo trướng hỷ và hoa màu, bốn bề đều là màu sắc rực rở, trong căn phòng chất đầy các loại gấm vóc, rương hòm, đều là đồ cưới chuẩn bị cho ngày mai, trên bàn trang điểm có chiếc đồng hồ Tây nho nhỏ, dưới đồng hồ có quả cầu thủy tinh di chuyển không ngừng, lắc qua lắc lại, cô nhìn đến chóng mặt, dường như cả căn phòng đang chuyển động.

 

Vợ chồng họ Doãn đều bận tiếp khách đến ba bốn giờ chiều, Doãn phu nhân mới có thời gian lên lầu, xem con gái, còn đám chị em họ của Tĩnh Uyển đều đi xuống bên dưới nghe kịch một mình Tĩnh Uyển ngồi ở đó, sững sờ thẩn thờ. Doãn phu nhân xót xa hỏi: “Nghe bác Ngô nói trưa nay con không ăn gì, sao mặt đỏ thế”. Tĩnh Uyển đưa tay sờ sờ mặt, má cô nóng hầm hập, giống như sốt, nhưng trong tim cô dường như có một ngọn lửa đang hừng hực cháy, ánh mắt đượm về xa xôi, cô khẽ gọi một tiếng “mẹ”.

 

Doãn phu nhân nhẹ nhàng vuốt tóc cô, mắt cô bỗng ngấn lệ: “Mẹ,con sợ lắm”. Doãn phu nhân sững lại một lát, lập tức cười nói: “Con bé ngốc này, có gì sợ chứ, con gái lớn đều phải gả chồng mà”. Tĩnh Uyển lại giống như sắp bật khóc, cắn chặt môi, cố ngân nước mắt. Doãn phu nhân hoảng hốt, vội nói: “Con ngoan trên dưới Hứa gia con đều quen thuộc, giống như nhà mình vậy, hơn nữa đều ở trong thành, sau này con muốn về cũng rất thuận tiện mà”.

 

Tĩnh Uyển cuối cùng không kìm được nữa, nước mắt trào ra, Doãn phu nhân thấy cô như thế, không hiểu vì sao cũng thấy vô cùng xúc động, đưa tay ra ôm con gái vào lòng. Tĩnh Uyển vừa nói vừa nấc nghẹn ngào: “Mẹ con xin lỗi”. Doãn phu nhân vỗ lưng cô: “Nói linh tinh, con có lỗi gì với mẹ chứ, chỉ cần con sống vui vẻ mẹ vui lắm rồi”. Bà lại nói tiếp: “Xưa nay con luôn hiểu chuyện, hôm nay phải vui vẻ, hôm nay là đại hỷ mà”. Tĩnh Uyển “vâng”một tiếng, vùi mặt vào mẹ, ôm chặt lấy eo mẹ rất lâu không chịu buông ra. Doãn phu nhân nghĩ chỉ có một cô con gái độc nhất này, ngày mai phải gả về nhà người khác, trong lòng cũng ngàn lần, vạn phần không nỡ, nên bà cứ dặn dò mãi mấy đạo lý làm dâu, rồi an ủi rất nhiều.

 

Theo lễ tiết, trước khi kết hôn Kiến Chương và Tĩnh Uyển không được gặp mặt, cho nên chiều muộn hôm đó, Kiến Chương gọi điện tới. Tĩnh Uyển nhận điện, trong lòng cô có cảm giác rối ren phức tạp, nhưng không biết nên nói gì với anh, Kiến Chương chỉ coi như cô mệt, nói mấy việc hôn lễ ngày mai, cuối cùng dặn dò: “Vậy em ngủ sớm đi”. Cô “ậm ừ” một tiếng, anh sắp dập điện thoại, bỗng nghe cô gọi “Kiến Chương”.Anh hỏi: “Sao thế?”. Trong ống nghe chỉ có tiếng ù ù, hơi thở anh chậm và đều, cô dịu dàng nói: “Không có gì, chỉ nuốn gọi anh một tiếng thôi”.

 

Thỉnh thoảng cô lộ ra vẽ trẻ con đó, nhưng Kiến Chương lại thấy ngọt ngào nói: “Ngủ sớm chút đi, ngày mai gặp mặt rồi”. Tĩnh Uyển yên lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói: “Anh cũng nghĩ sớm đi, tạm biệt”.

 

Cô dập điện thoại, đứng dậy. Phía trước bắc sân khấu, đang biểu diển, tiếng chiên trống truyền đến như xa như gần, réo rắt réo rắt…trái tim cô còn đập nhanh hơn tiếng trống, cô kiểm tra tất cả mọi thứ trong túi xách: ảnh cha mẹ và mình, hai tập tiền giấy dày, một nắm tiền lẻ, còn cả chiếc đồng hồ quả quýt đó. Cô nghĩ một lúc lấy khăn tay bọc viên “thần châu”, nhét vào đáy chiếc túi xách.

 

Khách khứa đều nghe kịch ở phía trước, cô lặng lẽ xuống lầu, vì sắp mở tiệc nên mọi người đều bận túi bụi, nhất thời không ai chú ý đến cô. Cô ra khỏi hoa viên từ cửa sau, trong vườn yên lặng không một bóng người, chỉ có mấy chiếc cờ màu nhỏ treo trên cây, tung bay trong gió, reo lên “:ật phật, lật phật”, tiếng chiêng trống huyên náo phía trước, cô lờ mờ nhận ra khúc “Ngọc Liên Minh”, đang hát đến câu: “Ta không cần gấm vóc tram ngọc, chỉ cần áo vải tram gai, mưa gió có nhau, bên nhau tron đời”….Lời thề son sắt đó như một lời an ủi kì lạ, khiến cô không thấy quá sợ hãi, chỉ là bước chân không kìm được hơi chùn lại, may mà suốt dọc đường không gặp ai. Cửa sau vốn không khóa, ông Lý canh cửa ngồi ở ghế mây, ngẩng đầu há miệng ngồi ở đó,hóa ra đã ngủ quên trong cơn gió mát, ông Lý nuôi một con chó vàng lớn, thấy cô nó lười nhác vẫy đuôi, cô lặng lẽ đi ra khỏi cửa.

 

Xuyên qua con phố liền nhìn thấy mấy chiếc xe kéo, đang đợi khách, cô lên đại một chiếc nói với phu xe: “Đến phía nam thành mau lên…”. Phu xe đó thấy dáng vẻ cô biết là tiểu thư con nhà giàu, hơn nữa lại không mặc cả, rõ ràng là khách sộp, lập tức hăng hái kéo nhanh như bay, không lâu sao đã đưa cô đến phía Nam thành.

 

Cô biết hành động này của cô khiến người đời kinh hãi, ngay cả Nghiêm tiên sinh đó thấy cô cũng rất bất ngờ. Cô không nhiều lời chỉ nói ngắn gọn một câu: “Tôi muốn đến Vĩnh Tân”.

 

Nghiêm tiên sinh đó lập tức trấn tĩnh, ánh mắt đầy vẻ khâm phục, miệng lại nói: “Bây giờ hai bên chiến sự gay go, giao thông đứt đoạn, tiểu thư không thể mạo hiểm như thế”.

 

Tĩnh Uyển cố chấp ngẩng mặt lên: “Anh ấy đã có thể đến được, anh nhất định có cách đưa tôi đi. Cửa thành sắp đóng rồi, nếu không đi hôm nay thì cả đời này tôi cũng không có cách nào đi”. Nghiêm tiên sinh do dự: “Tiểu thư thân đáng ngàn vàng, tiền tuyến lửa đạn không phải là chuyện chơi. Trên đường chẳng may có tổn thất gì, Nghiêm Thế Xương tôi mặt mũi nào đi gặp cậu Sáu”. Tĩnh Uyển giậm chân: “Tôi không sợ, anh sợ cái gì?”. Nghiêm Thế Xương suy nghĩ một lúc lâu, cuối cùng hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Vậy xin tiểu thư đợi lát. Tôi đi bố trí”.

 

Anh ta làm việc rất nhanh lẹ, một lúc sao liền quay lại, hai người ngồi xe ra khỏi thành, bên ngoài thành đã có một người thuê xe ngựa đón ở đó, trời đã muộn hai người ngồi trên xe ngựa lắc lư đi khoảng mười cây số. Tĩnh Uyển một nửa hồi hộp một nửa sợ hãi, xen lẫn sự vui mừng khó tả, ngồi trong chiếc ống xe ngựa lọc cọc lọc cọc. Trái tim cô ấp ủ một sự nồng nhiệt không thể khống chế. Lần này gần như đi cả nửa đêm, từ con đường nhỏ xe ngựa đi lắc lư rẽ vào con đường hẹp hơn nữa, cuối cùng đi vào một khuôn viên, nhờ vào chút ánh sáng ở đầu xe Tĩnh Uyển lờ mờ nhận thấy một hộ gia đình bình thường.

 

Nghiêm Thế Xương xuống xe trước, giúp cô kéo mành che nói nhỏ: “Tiểu thư tối nay ở tạm đây, sáng sớm mai lại lên đường”. Tĩnh Uyển tuy to gan, Nhưng đến nơi không quen biết này vẫn không khỏi thấy sợ hãi. Trong lòng vẫn nhớ cha mẹ, lúc này chắc họ lo lắng đến phát điên rồi, nhưng bản thân khi ra đi, đã không màng tất cả, sau này chỉ có thể cầu xin họ tha thứ.

 

Chủ nhà là một cặp vợ chồng tươi cười ra đón. Ở đây không có đèn điện, vẫn thắp đèn dầu, Tĩnh Uyển thấy có nữ chủ nhà mới thở phào nhẹ nhõm. Dưới ánh sáng ảm đạm, chỉ thấy một căn phòng dọn dẹp gọn gàng, bà chủ nhà giúp cô kéo chiếc mành, bên trong cũng là giường đất. Tĩnh Uyển nửa đêm bôn ba, nay thấy chiếc giường sạch sẽ đó liền ngồi xuống trước. Nghiêm Thế Xương nói: “E rằng ngày mai tiểu thư phải khổ rồi”. Anh ta nói rõ tất cả kế hoạch cho cô: Tiền tuyến tuy đang đánh nhau, nhưng ở đây rất gần núi Kỳ Phong, chúng ta đã chuẩn bị gia súc, sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành, đi qua con đường nhỏ trên núi, dự tính phải đi mất bốn năm ngày, chỉ cần đến phạm vi núi Kỳ Phong, thì chúng ta có thể kiểm soát được rồi. Có điều đường đi đều là đường nhỏ qua núi vượt đèo, nhà dân thưa thớt, chỉ sợ việc ăn ở của tiểu thư sẽ gặp khó khăn nhiều”

 

Tĩnh Uyển nói: “Không sao, tôi đã đi là đã chuẩn bị khổ rồi”.

 

Nghiêm Thế Xương gặp mặt cô có mấy lần, trong lòng rất lo lắng, cô là đại tiểu thư yếu đuối như thế chỉ sợ trên đường rất khó chăm sóc. Sáng sớm ngày hôm sau Tĩnh Uyển thay bộ đồ cũ của bà chủ nhà, lấy vải xanh quấn lên tóc, nhìn rất giống thôn nữ. Cô tuy trẻ tuổi nhưng trong lòng đầy tâm sự, biết rõ con đường phía trước rất vất vả, soi mình vào mặt nước vẫn không nhịn được cười thành tiếng.

 

Nghiêm Thế Xương cũng thay quần áo vải cũ, chủ nhà chuẩn bị cho anh hai con lừa lớn, lại bảo một đứa cháu của mình tuổi tầm mười bốn gọi là Thặng Nhi, giúp Tĩnh Uyển kéo gia súc. Tuy Tĩnh Uyển cưỡi ngựa rất khá nhưng cũng chưa từng cưỡi lừa, cô đứng ở một chiếc cối bên cửa do dự một lúc lâu, cuối cùng lấy hết can đảm cưỡi lên, Nghiêm Thế Xương vốn cũng rất lo lắng, thấy cô ngồi chắc chắn trên yên mới thở phào.

Khi cưỡi quen con lừa đó rồi thì đi vừa nhanh vừa chắc. Tháng tám lúa kê trong núi đang chín, Tĩnh Uyển ngắt một chiếc lá cọ che lên đầu tránh nắng, cô đã thay đổi giày da bằng đôi giày vải cũ bà chủ nhà mới khâu, trên đó thêu một cặp bướm ngũ sắc, dưới ánh mặt trời đôi giày lắc qua lắc lại, cặp bướm sống động như muốn bay lên. Cô nghiêng người ngồi trên lưng lừa, hai bên con đường nhỏ điều là cỏ dại xanh rì, thỉnh thoảng giữa khúc quanh của núi hiện ra một mảnh ruộng, gió thổi qua đám cao lương rậm rì, cách chiếc lá cọ, ánh mặt trời nóng bỏng tỏa ra hơi thơm thanh mát. Đi rất lâu mới nhìn thấy hai ba hộ gia đình lác đác ở sườn núi, khói bếp màu xanh ngọc bốc lên lưng chừng trời. Con đường núi ngoằn ngoèo, như thể đi mãi không hết vậy. Tĩnh Uyển lúc đầu vẫn lo lắng về cha mẹ, thỉnh thoảng có cảm giác áy náy, đến lúc này cũng đành cố gắng quên đi, cô nghĩ việc đã đến nước này nghĩ nhiều cũng chẳng ích gì. Trong lòng hễ nghĩ đến ngày gặp Mộ Dung Phong là cả trái tim và đầu óc đều thấy vui mừng, dù rằng cô chưa bao giờ phải đi qua đường núi gập ghềnh như vầy.

 

Thặng Nhi chỉ lo cắm đầu đi, Tĩnh Uyển vốn có tâm trạng, muốn phân tán sự tập trung, do đó hỏi cậu hết câu này đến câu khác như mấy tuổi rồi, nhà có bao nhiêu người, đi học chưa, đã đi đâu ra khỏi làng chưa… Nghiêm Thế Xuơng vốn rất lo lắng, thấy dáng vẻ bây giờ của cô dần dần cũng yên tâm hơn. Tĩnh Uyển hiếm khi được vào trong núi, thấy cái gì cũng mới mẻ, lúc đầu Thặng Nhi hỏi một câu mới đáp một câu, sau đó cô hỏi cây đó là cây gì, đó là hoa gì…dần dần cũng trở nên thân thuộc hơn.

 

Mùa thu lạnh dần gió thổi rì rào lách qua cây cối, giữa cây cỏ tiếng côn trùng như đan dệt, bên này đang hát nên kia đang ca, chít chít rít rít trầm bổng không ngừng, Thặng Nhi nhanh tay nhanh mắt, bắt ngay một con dế lớn đậu trên cỏ, lấy lá cỏ buộc lại, đưa cho Tĩnh Uyển.Tĩnh Uyển mừng rỡ đón lấy, thắt lá cỏ vào chiếc lá cọ, cầm đầu ngọn cỏ nhọn chọc choc con dế, vô tình để lộ tính khí trẻ con, Nghiêm Thế Xương thấy thế phì cười.

 

Đi đường như thế suốt ba bốn ngày liền, con đường họ đi rất hẻo lánh, ngoài người bản địa rất ít người biết. Cho nên tuy chặng đường rất cực nhọc nhưng bình yên thuận lợi. Nghiêm Thế Xương rất kính phục cô,nói: “Tiểu thư quả thật không thua đấng mày râu”. Tĩnh Uyển cười đáp: “Anh coi tôi là thiên kim đại tiểu thư, hẳn là có phần coi thường tôi rồi”. Nghiêm thế Xương liên tục nói: “Không dám”. Tĩnh Uyển phì cười nói: “Anh đừng vâng vâng dạ dạ thế, anh tuy là thuộc hạ của Cậu Sáu, nhưng đâu phải thuộc hạ của tôi”. Nghiêm Thế Xương nói: “Thế Xương phụng mệnh bảo vệ tiểu thư, cho nên hiện tại chính là thuộc hạ của tiểu thư”.

 

Tĩnh Uyển cười nói: “Lần này may nhờ có anh, nếu anh cứ vâng vâng dạ dạ như thế tôi phạt anh đấy”. Nghiêm Thế Xương lại “vâng” một tiếng, lần này đến Thặng Nhi cũng cười, Tĩnh Uyển nói: “Vừa mới nói xong, lại phạm lỗi, phạt anh hát”. Nghiêm Thế Xương theo Mộ Dung Phong từ nhỏ, lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, sống trong rừng gươm bão đạn cho đến ngày hôm nay, bình thường những đồng bào mà anh chung sống đều là đàn ông hào khí vời vợi, xưa nay không coi trọng phụ nữ yếu đuối, nhưng đồng hành cùng vị Doãn tiểu thư này lại thấy cô phóng khoáng, bình dị dễ gần, không chỉ không hề kiêu ngạo mà còn kiên nhẫn, đến đàn ông bình thường cũng không bì được. Đáng quý nhất là một đương kim tiểu thư, suốt dọc đường ăn lương khô uống nước lạnh, chân tay phồng rộp cả lên nhưng không hề chau mày. Trong lòng anh tôn trọng cô, nghe cô nói muốn phạt anh hát, cảm thấy khó xử mặt mày đỏ bừng lên điều này xưa nay chưa từng xảy ra với anh: “Tôi không biết hát”.

 

Tĩnh Uyển vỗ tay cười nói: “Nói dối, người nào trên thế giới này mà chẳng biết hát, mau hát một bài, nếu không tôi và Thặng Nhi đều không chịu”. Nghiêm Thế Xương không biết làm thế nào, anh cũng không biết hát nhiều bài, đàng hát một câu dân ca quê nhà: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành cây cài lên tóc, người trước người sau quay đầu nhìn lại, có ai đến hái hoa, yêu hoa yêu…”. Giọng anh khàn khô nhưng thấy Tĩnh Uyển cười, chăm chú lắng nghe, nên lại hát tiếp: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành hoa cài lên tóc, người trước người sau quay đầu lại nhìn, có ai đến lấy chị yêu chị, bướm hồng cũng biết hoa yểu điệu, bay đến bên cạnh chị chẳng lẽ anh cứ đờ đẫn như thế, đờ đẫn như thế, còn muốn anh nhét vào tay anh, nhét vào tay anh…”

 

Móng lừa gõ trên con đường đá, âm thanh trong trẻo, làm kinh động mấy chú chim non phía xa xa, chúng phành phạch vỗ cánh bay lên trời. Những ngày tháng trước đây của anh, hoặc là liếm máu trên bang súng đầu dao, hoặc là uống rượu cá tiền với anh em hoặc là say đắm trong nhà thổ ngõ nhỏ, chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ ngồi trên lưng lừa cất cao tiếng hát  giữa núi rừng thế này, nhưng thấy khuôn mặt cô tươi cười, trong lòng dù như thế nào cũng không làm phật lòng cô. Thế Xương hát hết một bài, Tĩnh Uyển cười nói: “Hát hay như thế mà nói không biết hát”. Chiếc roi trong tay Nghiêm Thế Xương đã dính đầy mồ hôi, anh yên lặng vài giây rồi cười nói: “Giọng cậu Sáu mới hay, thỉnh thoảng nghe cậu ấy gọi một phách, còn vang hơn mấy diễn viên nổi tiếng nữa đó”

 

Tĩnh Uyển cười mỉm nói: “Tôi thật sự không biết, phải bắt anh ấy hát mới được”. Cô lại thuận miệng hỏi anh: “Cậu Sáu lúc nhỏ của anh trông như thế nào?”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Lúc đại soái còn sống, Cậu Sáu cũng rất nghịch ngợm, đại soái hễ tức giận là cầm chổi lông gà đánh cậu ấy, không đánh gãy chổi tuyệt đối không tha, lúc đó Cậu Sáu tầm mười tuổi, có lần gây chuyện bên ngoài, biết đại soái sẽ đánh, cho nên cầm dao cắt một vết sâu bảy, tám phân trên chiếc chổi lông gà mới. Đại soái  về đến nhà, quả nhiên cầm chổi đánh, mới đánh được hai cái đã gãy, đại soái sững lại nói: “Sao loại chổi này bây giờ lại đểu thế?”. Người ở nhà ai cũng biết là Cậu Sáu bày trò, đều ôm bụng cười lỉnh ra bên ngoài.

 

Tĩnh Uyển cũng mỉm cười, mắt nhìn con đường núi trước măt, hình như hơi thẫn thờ, lúc này mặt trời lặn xuống núi, ánh sáng như dát vàng, Nghiêm Thế Xương cảm thấy đôi mắt cô như thủy tinh còn phát sáng óng ánh hơn cả ánh chiều tà rực rỡ đó, cô quay mặt đi má phớt hồng như ráng chiều,nói: “Nghiêm đại ca, sau đó thì sao?”. Cô gọi tiếng “đại ca” nghe rất tự nhiên, Nghiêm Thế Sơn không dám trả lời, đương lúc chần chừ lại nghe cô nói: “Tội nghiệp anh ấy từ nhỏ không có mẹ,haizz!”. Một tiếng than như thế nghe xa xôi bất tận như một sợi dây lan đến tận sâu thẳm trái tim. Nghiêm Thế Xương không dám ngẩng đầu nhìn cô nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu thư, ngày hôm nay sẽ đến Hà Gia Bảo rồi, ở đó chỉ cách núi Kỳ Phong một ngọn núi, tuy Dĩnh quân không đóng quân ở Hà Gia Bảo nhưng binh chiến lạc loạn là khó tránh khỏi. Cho nên hành trình ngày mai rất nguy hiểm, đến lúc đó nếu xảy ra chuyện gì, tiểu thư nhất định phải đi với Thặng Nhi trước, nó biết đường, biết đường nào đến núi Kỳ Phong”.

 

Tĩnh Uyển tuy hơi sợ hãi nhưng mau chóng lấy lại dũng khí, nói: “Nghiêm đại ca, ba chúng ta nhất định cùng nhau bình an đến núi Kỳ Phong”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Tôi chỉ sợ là bất trắc, tiểu thư là người phúc trí vẹn toàn, nhất định có thể bình an, thuận lợi đến gặp Cậu Sáu.

Không kịp nói yêu em – Chương 17

Chương17

Gió bên ngoài rất mạnh, buổi chiều trong núi, trong bóng râm của cây cối, trên cửa kính chỉ có hình bóng cây cối lay động, giống như hoa tuyết trắng rụn vỡ rơi trên cửa sổ trong mùa đông. Trong ánh sáng ảm đạm, gương mặt anh hiện lên không rõ ràng, nhưng cô biết anh đang nhìn mình. Anh không màng tất cả đến đây, còn cô lại không thể không màng tất cả mà theo anh. Con đường phía trước không thể biết được, bước một bước này chính là thịt nát xương tan.

Giọng nói của anh nhẹ bẫng như mơ: “Tĩnh Uyển, trời tối anh phải đi rồi, chỉ có mấy tiếng, em có thể ở lại cùng anh không?”

Đáng lẽ cô phải lắc đầu, việc này nên mau chóng kết thúc, anh nên mau chóng rời khỏi đây, cô nên về nhà. Nhưng không hiểu vì sao khi anh nhìn cô như thế, cô lại mềm lòng, cuối cùng vẫn gật đầu.

Cô không biết anh đem theo bao nhiêu người, nhưng trong thành Càn Bình, trong khu vực Dĩnh quân, đem nhiều người hơn nữa cũng chỉ là trứng chọi đá. Giữa đám cây cối ngoài cửa sổ thỉnh thoảng lướt qua đám cảnh vệ, ánh nắng chiếu vào song cửa sổ, đã sang buổi chiều, cúc áo cô anh đã nhặt lên hết, đặt trên bàn trà, nó giống như những ngôi sao vỡ. Không có kim chỉ, may mà trong túi xách có mấy cái kim băng, tuy quần áo đã được đính vào, nhưng những chiếc kim băng bạc đó trông rất buồn cười. Xưa nay cô rất coi trọng hình thức, thấy thế hơi chau mày, anh đã thấy cô không vui, bèn nảy ra ý nghĩ, anh ngắt mấy bôong hoa nhài trên bàn trà xuống, cài từng bông lên kim băng, trong chốc lát kim băng đã bị che đi, chỉ còn lại những cánh hoa trắng muốt nở bung trên áo. Cô mỉm cười lấy từng bông cài lên kim băng, anh ngồi trên sofa ở xa xa, im lạng nhìn cô.

Hoa nhài từ từ nở trên áo, giống như tơ lụa mềm mại, nhưng rõ ràng là thật, hương thơm lan tỏa. Anh mỉm cười nói: “Thế này đẹp thật, lại có phong thái của quần áo kiểu Tây”. Cô chỉnh lại cúc áo, mỉm cười nói: “Em cũng cảm thấy rất đẹp”. Anh lấy một bông hoa nhài, cài lên tóc cô, bông hoa trắng nho nhỏ trên ngón tay anh, bất giác người ta nghĩ đến việc không may mắn. Chiến sự cấp bách thế, cô biết rõ sau khi anh quay về nhất định phải đích thân chỉ huy tiền tuyến trong mưa bom bão đạn, tim cô bỗng nhói lên xót xa nói: “Em không cài nữa, em không thích hoa này”. Anh cười nói: “Anh không kiêng kị, em còn phong kiến hơn anh”. Cuối cùng anh vẫn cài nhẹ lên tóc cô.

Cô chầm chậm vuốt chiếc khăn tay của mình, mùi hương hoa nhài thoang thoảng trên áo, vì ở trong núi nên ánh nắng lúc ba, bốn giờ chiều trắng nhạt như bạc, bên ngoài cửa sổ có tiếng gió ào ào, lướt qua rừng thông như sấm rền. Cô mỉm cười nói: “Em đói rồi”. Mộ Dung Phong sững lại một lúc, hai tay vỗ một cái, Thẩm Gia Bình bên ngoài lập tức đi vào, Mộ Dng Phong hỏi: “Có gì ăn được không?”.

Trên mặt Thẩm Gia Binh lộ lên vẻ khó xử, họ tuy cẩn thận bố trí rồi mới đến nhưng vì hành tung bí mật hơn nữa chỉ tạm thời dừng chân ở đây, những người hầu như nhà bếp đã cho rời đi. Tĩnh Uyển đứng dậy nói: “Em đi xem có gì không, nếu có điểm tâm, uống bữa trà chiều cũng được mà”. Mộ Dung Phong không muốn rời xa cô dù một phút: “Anh đi cùng em”.

Ở đây vốn là một biệt thự của một tham tán nước ngoài, trong phòng bếp đầy đủ mọi thứ. Cô tuy là một thiên kim tiểu thư, nhưng vì từng du học, nên không cảm thấy lạ lẫm. Cô lấy bát đĩa ra, lại cầm một chai nước mắm đóng nắp, nói với Mộng Dung Phong: “Mở giúp em cái này”.Thẩm Gia Bình từ ngoài bước vào, Mộ Dung Phong không muốn anh ta bước vào, tự mình cầm con dao nhỏ cạy ra từng chút. Anh rất hiếm khi làm việc này, nhưng bây giờ lại có một cảm giác vui tột độ, dường như sự việc bên ngoài núi là một thế giới khác xa xôi, việc duy nhất lúc này là giúp cô mở cái nắp này.

Phòng bếp kiểu Tây không đầy vết dầu mỡ như phòng bếp kiểu Trung Quốc, sàn nhà là gạch xanh bằng phẳng trên tường cũng giống như phòng bình thường, dán giấy tường phương Tây, hơn nữa phòng bếp vừa đúng hướng Tây, ánh mặt trời chiếu vào, sáng sủa sạch sẽ không khiến người ta thấy nóng. Cô cúi đầu thái củ cải đó vì chưa từng làm việc này nên nhát thì dày nhát thì mỏng thái rất lâu dao rớt xuống nhà cạch một tiếng. Ánh mặt trời chiếu xiên xiên lên tóc cô, hơi ánh lên vầng sáng vàng, có lọn tóc xổ ra, bám trên má cô, bên ngoài gió ù ù, trong phòng chỉ nghe tiếng dao nhè nhẹ, nhón tay cô thon dài, ấn lên củ cải đó, vì dùng lực mạnh nên móng tay có màu đỏ nhàn nhạt, mu bàn tay có bốn vết lõm nho nhỏ, làn da trắng ngần nên có thể nhìn thấy những mạch máu lờ mờ.

Anh đặt chiếc nắp xuống, từ phía sau anh đưa tay ra sau ấn lên mu bàn tay cô, cơ thể cô hơi run run, trên trán có mấy sợi tóc rối không vén lên, trong tóc có mùi hương nhàn nhạt, anh lại không dám hôn. Cơ thể cô hơi cứng đờ, giọng nói như thể rất bình tĩnh: “Em xong rồi mở nắp được chưa?”. Xa xa ngoài kia là tiếng gió rì rào, anh ngẩn ngơ tựa nằm mơ, những việc vặt như thế anh chưa từng làm, sau này cũng không thể chỉ có thời khắc này, cô giống như vợ anh, một đôi vợ chồng bình thường nhất, sống ở trong núi tĩnh mịch, không màng chuyện hồng trần.

Anh chưa từng mở nắp, mãi mới mở được, cô nấu món súp borscht, dùng cà chua xào với thịt dê, đều là món ăn Nga, cô mỉm cười nói: “Em xem bạn học Nga làm, cũng không biết là đúng hay không”.

Đương nhiên rất khó ăn, họ không ăn ở phòng ăn mà ngay tại phòng bếp, anh tuy không đói nhưng vẫn ăn rất ngon lành, cô chỉ uống một ngụm canh cô nói: “Chua quá hình như cho quá nhiều dấm rồi”. Anh mỉm cười: “Không sao, ăn không hết đưa anh”. Cô chắt nửa bát còn lại cho anh, trên người cô có mùi thơm của dấm, gần như thế nhưng lại xa như thế.

Đi ra khỏi phòng không khí mát mẻ, tuy đã là tháng tám nhưng đã đượm khí thu. Xung quanh đều là chiều tà mênh mang, dần dần bao phủ con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra sau núi, anh và cô lặng lẽ đi, Thẩm Gia Bình và mấy cận vệ đi phía sau không xa. Đường núi được lát đá xanh, và ít người đi lại mặt đá rêu, hôm nay cô đi đôi giày cao gót, dần dần đi khó khăn hơn. Anh quay người lại đưa tay ra, cô do dự một lát, cuối cùng cũng đặt tay mình vào tay anh. Tay anh thô ráp mạnh mẽ, tràn đầy sức mạnh, tuy anh đi rất chậm nhưng mồ hôi trên trán cô vẫn dần dần rịn ra.

Vừa rẽ khỏi đường núi, cách vách đá chót vót hiện ra trước mắt, như những bức tường sừng sững muôn trượng giống như dùng dao cắt gọt. Còn phía tây là không gian vô tận, nổi lên là một vầng mặt trời đang lặn, mọi cảnh vật dưới núi đều thu trọn vào tầm mắt. Dưới chân núi khu rừng tĩnh mịch, bờ ruộng ngang dọc trong rất sương mù, ráng chiều ảm đạm, lờ mờ có thể nhìn thấy thành quách lớn, hàng vạn ngôi nhà, đó là thành Càn Bình. Xung quanh là tiếng gió ù ù không ngớt, trong chốc lát con người trở nên nhỏ bé như cọng cỏ, chỉ có vầng mặt trời đang lặn ấy rạng rỡ chiếu sáng vạn trượng hồng trần xa xôi dưới núi.

Anh nhìn thành Càn Bình nhòa đi trong ánh chiều tà, nói: “Đứng trên cao như vậy cái gì cũng nhìn thấy”. Cô lại thở dài một tiếng anh lấy khăn tay ra, trải lên một viên đá lớn,nói: “Em cũng mệt rồi ngồi xuống nghỉ ngơi chút đi”.

Cô vâng lời ngồi xuống, cô biết thời gian không còn nhiều, mặt trời xuống núi anh phải đi, về sau anh và cô chỉ là người qua đường. Anh từng đột ngột đâm vào cuộc sống của cô, nhưng cô không hề lệch hướng, cuối cùng cô vẫn phải tiếp tục cuộc sống của mình. Anh ngồi xuống bên cạnh cô, mặt trời đang chầm chậm lặn xuống giống như một quả trứng treo trên cửa sổ kính, chậm chạp rơi xuống, chậm chạp nhưng rơi thẳng, không thể kéo lên được.

Trong tay anh cầm lên một chiếc hộp nhung màu vàng nhỏ, nói với cô: “Bất luận thế nào, Tĩnh Uyển anh hi vọng em sẽ sống hạnh phúc.Sau này…sau này e rằng chúng ta chẳng còn mấy cơ hội gặp nhau, thứ này là mẹ anh để lại khi còn sống, anh luôn muốn tặng em”. Cô không nhận lấy cũng không nói gì, anh từ từ mở hộp ra, trong tích tắc ánh sáng chiếu thẳng vào khuôn mặt cô, ánh sáng đó không hề chói mắt, ngược lại rất ấm áp. Cô biết anh đã tặng thì nhất định là đồ giá trị, nhưng không bao giờ là ngọc trong veo, còn to hơn trứng chim bồ câu như thế phát ra thứ ánh sáng chuyển động kì lạ, khiến người ta yên lặng nín thở.

Ánh chiều tà rất đẹp chiếu rạng giữa trời, bầu trời giống như chiếc phẩm màu bị đổ, màu tím, màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu hồng…đằng sau anh đều là ánh mặt trời rực rỡ, ánh chiều tà cuối cùng bao phủ lấy anh, ngược ánh sáng mặt anh nhìn không rõ. “Đây là cống phẩm của “Hợp Phố” thời Càn Long vì rất hiếm nên được gọi là “Thần Châu”, tức là thần châu trong “truyền thuyết”. Cô nói: “Thứ đồ quý như vậy em không thể nhận”. Gương mặt anh như đang cười nhưng giọng nói đầy thất vọng: “Tĩnh Uyển vạn vật trên thế gian này mà nói đối với anh,quan trọng nhất chính là em, viên ngọc này có là gì chứ?”

(    Ghi chú: “Hợp phố” một địa danh là nơi sản xuất ngọc trai nổi tiếng cũa Trung Quốc)

Cô buồn bã tự lừa mình dối người quay mặt đi, cuối cùng nhận lấy chiếc hộp, anh nói: “Anh đeo cho em”. Chiếc dây chuyền đó kiểu Tây, anh cúi đầu mò mẫm, mãi mà không đeo được. Trong tóc cô có mùi hoa thoang thoảng, ngón tay anh rịn mồ hôi, chiếc móc nho nhỏ chốc lát trượt ra, hơi thở của cô tràn đầy trong lòng anh, cô bỗng rướn về phía trước, mặt vùi vào ngực anh, anh ôm chặt lấy cô, tóc cô cọ vào cằm anh nhè nhẹ, hơi ngứa ngứa nổi đau không thể kiềm chế cuộn lên trong lòng anh, anh nói: “Đi với anh”.

Cô chỉ lắc đầu quầy quậy, dường như chỉ có thế mới có thể chắc chắn mình không nói ra lời gì đáng sợ. Nhà cô ở đây, gốc cô ở đây, cha mẹ người thân cô đều ở đây, tất cả mọi thứ cô thân thuộc đều ở đây. Cô luôn cho rằng mình rất dũng cảm, giờ mới biết mình rất yếu đuối, cô không dám, cô tuyệt đối không dám. Nếu cô không màng tất cả đi theo anh, nếu anh không yêu cô nữa, cô sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm, sẽ mãi mãi không thể bò lên, vì cô yêu anh như thế, nếu sau này anh không yêu cô nữa, nếu anh muốn bỏ rơi cô, cô sẽ không còn gì cả. Đến lúc đó cô làm sao có thể chịu đựng được chứ?

Nước mắt lạnh lẽo chảy ra, giọng nói của anh cũng rất nhẹ: “Mặt trời lặn rồi”

Trong làn nước mắt nhạt nhòa, mặt đất đang nuốt chút ánh sáng cuối cùng, giữa trời đất bóng tối mênh mang trào lên, đan vào giữa mùa hạ, mà cơ cơ thể cô lại vô cùng lạnh lẽo.

Vì phải về kịp trước lúc đóng cửa thành Càn Bình, nên xe đi rất nhanh. Ánh trăng đang dần lên cao, vầng trăng sáng treo lơ lửng trên ngọn cây giữa núi. Vẫn là vị Nghiêm tiên sinh đó đưa cô về. Suốt dọc đường cô đều im lặng, xe đi trên đường đá giữa núi, cán vào đá phát ra tiếng loạt roạt nhỏ. Cô cứ thất thần như thế, cũng không biết là qua bao lâu, xe bỗng nhiên lắc lư, lái xe lập tức dừng xe lại, xuống xe xem xét kêu lên bực tức: “Chết, rồi nổ lốp rồi”.

Nghiêm tiên sinh đó cũng xuống kiểm tra, hỏi lái xe: “Thay lốp dự phòng mất bao lâu?”. Lái xe đáp: “Ít nhất phải một tiếng”. Anh ta sốt ruột nói rõ tình hình với cô, cô cũng bắt đầu sốt ruột , nếu không về kịp giờ cửa thành đóng mất, phải đợi đến sáng mai mới có thể vào thành, nếu cô cả đêm không về, trong nhà sẽ loạn hết lên ấy chứ?

Đang trong lúc sốt ruột, chỉ thấy hai luồng ánh đèn rọi tới, hóa ra có một chiếc xe từ từ trên núi xuống, đường núi khúc khuỷu, chiếc xe đó vốn đi từ từ, lúc đi qua xe họ, tốc độ xe càng chậm lại. Đã đi qua bỗng nhiên chiếc xe đó dừng lại, người lái xe bước xuống,như muốn hỏi họ sao vậy. Vị Nghiêm tiên sinh đó thấy người lái xe “ồ”một tiếng, người lái xe hình như nhận ra anh ta, quay trở lại nói câu gì đó với người trong xe.

Tĩnh Uyển thấy một người xuống xe, trông rất trẻ rõ ràng là một công tử phong độ, Nghiêm tiên sinh lên trước một bước, chào hỏi qua loa, nhưng không hề giới thiệu với Tĩnh Uyển, chỉ nói: “Tiểu thư chúng tôi vội vào thành, có thể cảm phiền cho chúng tôi đi nhờ một chuyến được không?”.

Người đó nói: “Đương nhiên mời hai vị lên xe”. Giọng nói anh ta rất trầm ấm dễ nghe, lại không phải là giọng người bản địa. Tĩnh Uyển không hề để ý, khi lên xe cảm ơn, người đó khách sáo đáp lại: “Không có gì, không cần khách sáo”. Trong xe có gắn một chiếc đèn nhỏ trên trần xe, chiếu rõ khuôn mặt người đó, cô cảm thấy rất quen, chợt nhận ra đó là người nhường nhẫn hôm ấy. Người đó nhìn rõ hình dáng cô, trong mắt lóe lên ánh nhìn kì lạ, thoắt cái trở lại vẻ ung dung hôm nào.

Tuy Nghiêm tiên sinh hình như có quen biết với Trình tiên sinh nhưng trong xe họ không hề nói chuyện. Tĩnh Uyển tâm trạng vốn nặng nề, nên chỉ im lặng, may mà xe đi rất nhanh, cuối cùng kịp vào thành trước lúc đóng cửa. Tronh thành Càn Bình nhà nhà đã lên đèn, Nghiêm tiên sinh đó liên tục cảm ơn Trình tiên sinh, họ xuống xe ở cổng Tây. Nghiêm tiên sinh đó làm việc rất chu đáo, giúp cô thuê một chiếc xe kéo về nhà, còn mình ngồi một chiếc khác theo sau bảo vệ cô, giữ khoảng cách không xa không gần.

Bên ngoài cổng nhà vẫn còn bảy, tám chiếc xe đậu lại, từng dãy đèn chiếu sáng đến tận trong vườn, xem ra khách vẫn chưa về hết, cảnh vệ họ Nghiêm đó xuống xe từ xa, thấy không có ai chú ý nói nhỏ với cô: “Thời gian này tôi đều ở Càn Bình phủ nhà tiểu thư, tôi không tiện đến thường xuyên, nếu tiểu thư có việc hãy trực tiếp đến số 21 ngõ Tam Hòe phía nam thành tìm tôi”. Tĩnh Uyển gật đầu, cô sợ về nhà muộn cha tức giận sẽ sinh ra lắm chuyện, khách khứa quả nhiên vẫn chưa về, trong nhà trên hình như vẫn còn mấy bàn bạc chượt, từ xa đã nghe thấy tiếng chia bài loạt soạt. Cha đang đánh bài với mấy người chú bác, thấy cô về chỉ hỏi một câu: “Vương tiểu thư đã đỡ chút nào chưa?”

Cô gật đầu qua loa, mượn cớ mệt về phòng mình, chẳng qua cả tâm hồn, thể xác cô đều quá mệt mỏi, cô nằm xuống giường nói nghỉ ngơi một lát, nhưng liền ngủ thiếp đi luôn. Trong mơ khung cảnh giống như ngày cưới, cô che mạng đỏ mặc quần áo cưới đỏ, đứng trong lễ đường rộng lớn, xung quanh đều là bạn bè người thân, bên ngoài cười nói nhưng bên trong tim cô lại buồn cực điểm. Tiếng người xướng lễ xướng lên : “Một bá ,hai bái…”. Hứa Kiến Chương bên cạnh cúi đầu hành lễ, trong lòng cứ nghĩ không lẽ sự thật lại gả cho anh như thế, chẳng lẻ thật sự gả cho anh?

Cô bàng hoàng tỉnh dậy, chỉ thấy cánh tay tê nhức, trên người lại đắp chiến chăn mỏng, chắc là bác Ngô đắp giúp cô, cô không biết mình đã ngủ bao lâu, nhìn trời bên ngoài đang dần sáng, đêm mùa hè luôn ngắn ngủi, trời đã sắp sáng rồi. Cô liền ngồi dậy vạt áo rơi ra mấy cánh hoa, cô nhặt lên xem hoa nhài tuy đã héo nhưng vẫn còn thơm. Cô chợt nhớ ra mình còn đeo viên “thần châu” đó, cô vô thức sờ lên cổ, không ngờ không thấy gì, trái tim bỗng chùng xuống, trong chốc lát dường như toát mồ hôi lạnh, chỉ nghĩ: “Viên ngọc đâu rồi?”

Cô hốt hoảng vội vàng đánh răng rửa mặt, nghĩ viên ngọc đó nhất định là rơi tối qua, nếu không phải xe kéo lúc về nhà thì rơi trên ô tô, bây giờ phải nhanh chóng đi tìm. Cô vốn rất ham ngủ ngay cả bác Ngô cũng ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư sao dậy sớm thế”. Doãn phu nhân thấy cô xuống lầu cũng thương xót nói: “Ssao không ngủ thêm chút nữa ngày kia là ngày lành, mai e rằng nửa đêm đã phải dậy chuẩn bị, đến lúc đó rất mệt đấy”. Tĩnh Uyển “dạ” một tiếng, Doãn phu nhân có một cô con gái duy nhất nên rất yêu chiều, thấy cô không tập trung liền hỏi: “Có phải ốm rồi không? Hai ngày này đừng để mệt quá đấy”.

Tĩnh Uyển vâng dạ qua loa với mẹ, trong đầu chỉ nghĩ trước tiên phải đi ngõ Tam Hòe, nói với Nghiêm tiên sinh, anh ta quan biết Trình tiên sinh, có thể bảo anh ta đi hỏi xem có phải rơi trên xe vị Trình tiên sinh đó không, nếu không vậy thì phiền phức rồi. Đang tính toán như thế bác Phúc đến thông báo có khách đến thăm cô, vì bình thường cô cũng có rất nhiều bạn học nam đến chơi,n ên Doãn phu nhân không để ý lắm. Tĩnh Uyển cầm tờ danh thiếp lên, chỉ thấy ba chữ “Trình Tín Chi” trong lòng mừng rỡ nghĩ chắc vị Trình tiên sinh đó, vội bảo bác Phúc mời đến phòng khách nhỏ. Quả nhiên là vị Trình tiên sinh ấy, từ xa anh đã cúi người hành lễ kiểu Tây,nói luôn: “Đường đột đến thăm tiểu thư lúc này là không nên nhưng tối qua tiểu thư quên một thứ rất quan trọng trên xe tôi, cho nên tôi vô cùng mạo muội đến trả trước”.

Tĩnh Uyển lúng túng nghĩ anh xuất thân cao quí, học rộng biết nhiều, e rằng đã biết rõ lai lịch viên chân trâu ấy, chẳng trách tối qua khi trên xe vừa nhìn thấy, vẻ mặt đã hiện rõ vẻ thiếu tự nhiên. Lúc đó cô chỉ canh cánh việc trong lòng, không hề phát giác. Không biết anh ta rốt cuộc biết bao nhiêu, trong lòng cứ thấp thỏm lo âu, vị Trình tiên sinh đó lại nói như không có chuyện gì: “Em gái nhà tôi xưa nay rất thích thứ đồ này, cho nên lần trước tôi mới đặt chiếc nhẫn đó ở cửa hàng đồ Tây cho nó, viên ngọc này của tiểu thư cũng có lẽ là ngọc trai nuôi từ Đông Doanh phải không?”

Tĩnh Uyển nghe anh nói cố ý giải vây cho mình, trong lòng nhẹ nhõm cười, nói: “Đúng thế là ngọc trai nuôi”. Vị Trình tiên sinh đó nói: “Viên ngọc đẹp đẽ như vậy, chỉ có người đẹp như tiểu thư đeo mới xứng, mới cùng tỏa sáng”. Tuy nói một câu nịnh nọt lấy lòng như thế nhưng thốt ra từ miệng anh ta thấy rất tự nhiên, không hề khiến người ta cảm thấy khách sáo, giả tạo.

Không kịp nói yêu em – Chương 15

Phần hai: Hôn lễ không có cô dâu

CHƯƠNG 15

Tĩnh Uyển vốn đang trong giai đoạn dưỡng thương, trên đường cực kì mệt mỏi, vất vả cô sợ cha lo lắng, cố gắng không để lộ ra, chỉ cắn răng chịu đựng. Về đến Càn Bình, xuống xe dường như mệt mỏi lên đến cực điểm, cô không muốn nói thêm một câu. Suốt dọc đường Doãn Sở Phàn lo lắng không nguôi, lúc xuống tàu mới thở phào một tiếng, nói: “Cuối cùng cũng đến nhà rồi”.

Tiếng cười ồn ào trên sân ga, lần này đi Thừa Châu, chỉ mấy tháng, nhưng cô lại có cảm giác như cả một đời, dường như tách biệt với thế giới này là một tầng sâu, đầu óc choáng váng, cô cố gắng lấy tinh thần xuống xe, chân đặt xuống đất, trái tim vẫn dập dềnh. Họ đã điện báo cho gia đình từ trước, lái xe trong nhà đón được họ mới thở phào mặt mày hớn hở nói: “Lão gia, đại tiểu thư, hai người đã về rồi, phu nhân sớm đã giục chúng tôi đi đón đó.”

Tĩnh Uyển cảm thấy mình yếu ớt đền cực độ, mệt đến cực độ, ngồi trên xe cô chỉ muốn mau về nhà, đến lúc về nhà vừa xuống khỏi xe bỗng nhiên như có sức lực cô bước nhanh vào phòng khách: “Mẹ, Mẹ!”. Doãn phu nhân đã ra đón, cô lao vào lòng mẹ, giống như đứa trẻ òa khóc thành tiếng. Doãn phu nhân ôm lấy cô, cô khóc lớn hu hu như thể muốn trút ra hết những đau đớn tủi nhục gần đây. Doãn phu nhân không kìm được rơi lệ nói: “Về là tốt rồi,về là tốt rồi…”

Cô ôm lấy cánh tay mẹ, giống như ôm lấy khúc củi mục cuối cùng, cứ thế khóc nức nở. Cô chưa từng yếu đuối thế này, cũng chưa từng sợ hãi thế này. Doãn phu nhân vỗ vỗ lưng cô giống như dỗ đứa trẻ, cô kiệt sức nức nở nói: “Mẹ, con sai rồi.”. Doãn phu nhân ngấn lệ nói: “Con gái lần sau không được dọa mẹ như thế, mẹ chỉ có con thôi”. Nước mắt cô cũng lã chã chảy xuống giọng nói của cô gần như không thể nghe thấy: “Mẹ, con cũng chỉ có mẹ”

Tối đó cô ngủ rất ngon, cơ thể quá mệt mỏi, trái tim cũng mệt mỏi, thế nên về đến nhà là ngủ một giấc thật sâu chẳng mơ mộng gì. Cô ngủ đến trưa mới dậy ăn cơm trưa. Doãn Sở Phàn rời Càn Bình đã lâu vừa quay về bận việc kinh doanh. Doãn phu nhân ở lại với con gái, cứ ngắm cô mãi, chỉ hỏi mọi chuyện cô ở Thừa Châu. Cô sợ mẹ lo lắng, chỉ kể chút chuyện không liên quan, hai mẹ con tíu tít trò chuyện, bỗng bác Ngô vào nói: “Phu nhân, tiểu thư, Hứa thiếu gia đến.”

Tĩnh Uyển chỉ thấy trái tim nhảy lên không biết là cảm giác gì, Doãn phu nhân đã nói: “Mau, mau đi gọi cậu ấy vào”. Tĩnh Uyển ngồi ở đó không động đậy. Hứa kiến Chương hôm nay mặc áo dài, người gầy đi rất nhiều, vẻ mặt cũng mệt mỏi, từ xa đã chào hỏi Doãn phu nhân: “Bác gái”. Doãn phu nhân nói: “Ngồi đi, bác lấy chút điểm tâm cho hai đứa”. Bà liền đứng dậy ra đi, khóe miệng Tĩnh Uyên hơi mấp máy, cô muốn giữ mẹ lại, cuối cùng vẫn không nói ra.

Hứa Kiến Chương nhìn cô từ phía xa, giữa họ chỉ cách nửa căn phòng, nhưng trong chốc lát bỗng trở nên xa vời, dường như cách cả ngàn núi vạn biển. Anh hơi cúi đầu, Tĩnh Uyển nghiêng mặt, trên cửa sổ rèm cửa nhung màu xanh lá thẫm rủ những tua màu vàng hoa lệ gió thổi qua chút ánh vàng lấp lánh, giống như mặt trời chiếu xuống dòng sông, sống động lấp lánh, trong mắt anh lại tràn ngập sự chán nản.

Trong tim cô chất chứa cảm giác rối ren phức tạp, vừa như thương xót lại vừa như oán trách càng giống như sự bị động khiến cô không thể nghĩ gì thêm, ép cô đến mức không thể thở được. Cuối cùng anh mở rộng nói khàn khàn: “Tĩnh Uyển xin lỗi”. Cô không nói gì một sức mạnh kì lạ ủng hộ cô, móng tay cô vô thức cào vào mặt nhung ghế sofa nhung tơ mịn và mềm, hơi ngứa. Rất lâu sau anh lại nói: “Hôm nay anh đến, chỉ là đến xin lỗi em, anh có lỗi với em, nhưng trong tình hình đó anh cũng không có cách nào khác. Anh không mong em tha thứ cho anh, cũng biết em không muốn gặp anh, nhưng nếu hôm nay anh không đến, kiếp này anh sẽ không yên tâm.

Gió rất mạnh, thổi rèm cửa phần phật, Tĩnh Uyển nghĩ đến phòng ngủ cửa Mộ Dung Phong, cũng là rèm cửa lớn kiểu Tây, dưới rèm cửa kết quả cầu bông, lúc không có việc gì làm cô thường đứng trước cửa sổ nghịch mấy quả cầu đó, quả cầu bông xoa trong lòng bàn tay hơi ngứa ngứa. Cô bất ngờ hoảng hốt, kì lạ sao bỗng nhiên bản thân lại nhớ đến điều này. Cô cho rằng Thừa Châu là ác mộng của mình, cả đời cũng không muốn nhớ lại. Cô hơi hoảng loạn mắt nhắm lại, Kiến Chương đang nhìn cô, ánh mắt đầy hối hận và đau khổ, vẻ mặt cô hơi thẩn thờ nhưng cô định thần lại nói: “Em không oán trách anh”.

Anh đứng đó không nhúc nhích, giọng nói vẫn nhỏ nhẹ: “Nhưng anh trách bản thân mình…”. Cô quay đầu lại một cách hơi tự lừa mình dối người: “Đây không phải lỗi của anh, em không trách anh”. Anh lại gọi một tiếng Tĩnh Uyển. Cô nói: “Là em không tốt sao có thể trách anh được”. Sắc mặt anh nhợt nhạt đến đáng sợ, tuy cô gần anh như vậy, nhưng lại xa vời không với nổi đến thế. Cô nói ra câu đó, lập tức cảm thấy hối hận, yên lặng ngồi đó chỉ nhìn anh xót xa. Anh nhớ lại lúc nhỏ mỗi khi cô gây chuyện hoặc là bị tủi thân gì, cô đều có dáng vẻ đấy, trái tim mềm nhũn, nước mắt chực trào ra, chỉ là cố gắng kìm nén.

Cô đi lên phía trước một bước, anh đưa tay ra, cô chẳng nghĩ gì nửa mà cũng chẳng muốn nghĩ gì nữa, nghĩ tiếp cô sẽ phát điên. Cô quay về rồi, cô muốn quay lại cuộc sống của mình. Cô lao vào lòng anh, giống như sợ một cái gì đó vô hình, vô tướng. Cô muốn sự bình yên ở anh, muốn anh cho cô sự thân thuộc, trên cơ thể anh có mùi thuốc quen thuộc không có mùi thuốc súng rất nhạt xen lẫn. Cô không thể nghĩ tiếp, nghĩ tiếp cô sẽ sợ hãi, cô ngẫn mặt lên mắt ngấn lệ, cô biết rõ là không thể quay lại, cô không thể quay lại quá khứ trước đây với anh, nhưng cô cứ cố chấp trong tuyệt vọng, cô nhất định muốn giống như trước đây, cô nhất định phải tiếp tục cuộc sống của mình.

Anh ôm chặt lấy cô như ôm bảo vật đã mất vừa tìm lại được, anh không ngờ có thể dễ dàng tìm được sự tha thứ của cô như vậy, một người ngạo mạn như cô, bây giờ lại yếu đuối đến mức không có một sức lực nào. Trong tim anh lờ mờ dấy lên nỗi sợ hãi, tất cả quá dễ dàng, không giống như sự thật. Anh cho rằng cả đời cô sẽ không tha thứ cho mình, nhưng bây giờ cô đang ở trong lòng anh. Anh ôm chặt lấy cô, dường như chỉ có thế mới chứng minh sự tồn tại của cô, cơ thể cô cứng đờ, có lẽ vì vẫn giận anh, anh thở dài hôn lên tóc cô: “Tĩnh Uyển….anh xin lỗi….”

Vẻ mặt cô ngơ ngẩn, nơi tan nát trong trái tim lại âm ỉ đau, cô ép bản thân mình không nghĩ nữa, thứ cô muốn chỉ là một cuộc sống yên bình. Anh sẽ đối xử tốt hết sức với cô có thể, anh sẽ đối tốt với cô, sau đó quên hết tất cả những khúc mắc, quên Thừa Châu, quên tất cả những thứ đã làm xáo trộn cuộc sống của cô.

Càn Bình giữa tháng bảy, tháng tám vô cùng nóng bức, Tĩnh Uyển tuy ham ngủ nhưng ngày hè nóng nực hơn 10 giờ nắng đã gắt, cả khu vườn cây cối tươi tốt, mơn mởn sum suê, cô dậy muộn nên không ăn sáng, chỉ lấy một miếng bánh ngọt vừa ăn vừa đọc báo Tây hôm nay. Trên báo còn phân tích sự xung đột giữa Thừa – Dĩnh tại đồn Trịnh Gia, trình bày bố phòng và thực lưc hai quân chính phủ ở ngoài đứng hòa giải… Cô nhìn thấy hai từ “Thừa quân” bất giác nảy sinh bực bội, vứt tờ báo sang một bên, Doãn phu nhân thấy cô đọc báo nên hỏi: “Báo viết gì sắp đánh nhau sao?”

Cô đáp: “Vẫn là mấy câu đó, chuyên gia phân tích quân sự nước ngoài nói, tuy cục diện rất căng thẳng nhưng chắc sắp tới sẽ không đánh nhau”. Doãn phu nhân nói: “Vậy thì tốt, đánh nhau thì loạn lạc, khiến lòng người bất an, bà lại nói: “Không phải con muốn đi dạo công viên với Kiến Chương sao, sao đến giờ vẫn chưa đi?”

Tĩnh Uyển nhìn nhìn đồng hồ rồi nói: “Bọn con đến Minh Minh Hiên ăn cơm, dù sao công viên mấy ngày lại dạo một lần, giống vườn hoa nhà mình có gì thú vị chứ?”. Minh Minh Hiên là một nhà hàng đồ Tây ở trong công viên Càn Sơn, rất nổi tiếng, Tĩnh Uyển rất thích món đào lạnh ở đó, cho nên Kiến Chương và cô hay hẹn nhau ở đó.

11 giờ cô mới ra khỏi nhà, đến cô công viên đã 12 giờ. Hôm nay là chủ nhật, Minh Minh Hiên sắp kín chỗ. Vì là khách quen nên bồi tây mặt mày tươi cười chào hỏi: “Doãn tiểu thư đến à, Hứa thiếu gia đã đợi cô từ lâu rồi đấy”.

Vì đến ăn đồ Tây nên Hứa Kiến Chương cũng thay âu phục, ánh nắng giữa trưa gay gắt chiếu xuyên qua cửa sổ kính màu tạo thành những vệt sáng đầy màu sắc, một vệt sáng màu vàng nhạt đang chiếu trên mặt anh anh mỉm cười nheo mắt lại, những sợi tóc đen tuyền trên trán anh thẳng tấp, nụ cười đó ấm áp khiến tim cô cảm thấy dịu dàng bình yên , cô cười nói: “Đợi em lâu lắm rồi phải không?”. Kiến Chương đáp: “Anh cũng mới đến một lúc thôi”.

Thức ăn mới đem lên một lát, bỗng nhiên tiếng ồn ầm ĩ bên ngoài truyền tới, trong nhà vốn có một đội nhạc Nga đang biểu diễn, âm thanh đó ồn ào đến nổi át cả tiếng nhạc, có người đang lớn tiếng nói gì đó, còn có người liên tiếp hỏi, rất nhiều người khác không kìm được ngó nghiêng bồi Tây vội vàng đi qua, Tĩnh Uyển gọi anh ta lại hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”

Bồi Tây đó đáp: “Báo mới đăng tin,Thừa quân tuyên chiến rồi.”

Trái tim cô chợt chùng xuống, không biết vì sao cơ thể bỗng đờ ra. Lúc lâu sau cô mới quay mặt lại nhìn Kiến Chương, trong ánh mắt ánh lên chút đau khổ, rất nhanh bị che lấp bởi sự ung dung. Giọng nói của anh dường như rất bình tĩnh: “Xem ra sẽ phải loạn lạc một thời gian”. Tĩnh Uyển cũng dần trấn tĩnh, nói như không có chuyện gì: “Thừa Dĩnh cũng không đánh nhau bốn năm nay rồi nhỉ”. Hai người họ vẫn cứ nói chuyện nhưng chiếc đĩa trong tay Tĩnh Uyển đã chọc nát miếng bánh mỏng mới mang lên.

Người ở bàn bên cạnh lớn tiếng thảo luận tình hình, những giọng nói liên tiếp truyền đến. Một người nói hành động này của Mộ Dung Phong không thông minh, Thừa quân vốn yếu thế, tuyệt đối không có lợi. Một người khác nói: “Dĩnh quân mới thắng An Quốc quân, sĩ khí đang lê , nếu không phải chính phủ nước ngoài điều đình thì đã tuyên chiến với Thừa quân tháng trước rồi”. Một người nửa lại có ý kiến khác: “Theo tôi thấy chưa chắc, Mộ Dung Phong mới kí hiệp ước với người Nga, quay đầu lại liền tuyên chiến với Dĩnh quân, ở giữa nhất định có điều bất thường”. Họ mồm năm miệng mười, nói mãi không thôi, Tĩnh Uyển vốn không muốn nghe, nhưng từng câu chữ giống như con rắn lạnh, uốn lượn luồn vào tai cô Tâm trạng cô rối loạn, bất giác thở dài một tiếng .
Hứa Kiến Chương bỗng nhiên gọi cô một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô ngẩng đầu lên nhìn anh sắc mặt vẫn khoan thai điềm tĩnh, vệt sáng ở cửa kính màu chiếu lên khăn trải bàn trắng muốt, ánh sáng nhảy múa, chập chờn như lụa, có chiếc bóng hơi lay động, là chiếc lá bên ngoài cửa sổ bị gió thổi bay vào. Trong phòng ăn vốn lắp quạt trần, lúc này cánh quạt lớn chầm chậm quay giống như mái chèo chậm rãi khuấy động không khí ngưng tụ. Cô có một dự cảm không lành, chiếc khăn ăn phẳng phiu thấm hết mồ hôi trong lòng bàn tay, mềm mại mà dẻo dai, cô cứ thế nắm chặt chiếc khăn ấy. Vẻ mặt Kiến Chương vẫn thế, giống như lúc nhỏ giúp cô hái bông hoa, anh nói: “Chúng ta kết hôn đi”

Chiếc quạt trần trên đầu phát tiếng ù ù khe khẽ, xung quanh là những tiếng cười nói nho nhỏ, xa xa có tiếng ve sầu. Cô không hề thấy nóng nhưng mồ hôi cứ thấm vào quần áo, dính vào người. Cảm giác hoảng hốt chạy qua tim cô, giống như lúc nhỏ tỉnh dậy, trong phòng tĩnh mịch, mẹ không có ở đó, vú nuôi cũng không có ở đó, bốn bề yên ắng, chiếc đồng hồ treo tường tích tắc tích tắc chạy, chỉ có một mình cô trong phòng hốt hoảng đến phát sợ.

Tiếng người nói hỗn độn, còn lờ mờ nghe thấy có người nói tiếng Nga, ngữ điệu cứng nhắc và uốn lưỡi, cô định thần lại mới nhận ra đó là chỉ huy đội nhạc Nga. Đội nhạc lại bắt đầu diễn tấu, bản “Souvenir D’enfance”, tiếng dương cầm rất rõ ràng, mỗi nốt nhạc giống như gõ lên tim cô, từng nhát từng nhát một. Cô nghe thấy giọng nói chậm rãi, rành mạch của mình vang lên: “Được thôi”.

Mọi việc của lễ đính hôn đều đã được chuẩn bị xong, lần trước vì Kiến Chương xảy ra việc mà lỡ mất, bây giờ lại bố trí lại cũng không mất công sức. Tuy bây giờ là xã hội kiểu mới, nhưng đối với chuyện hôn nhân đại sự, vẫn khó tránh khỏi theo tục cũ, hai gia đình đều chuẩn bị sính lễ và của hồi môn.

Tĩnh Uyển không hề biết kết hôn lại phải chuẩn bị nhiều thứ như vậy, tuy cha mẹ giúp cô lo liệu nhưng cô rất nhiều đồ vẫn phải tự cô chọn lựa. Sáng sớm hôm đó đích thân Kiến Chương lái xe đến, đem hai người đến Tây Đại An xem nhẫn kim cương.

Cửa hàng đồ Tây vốn rất ít khách, đặc biệt là sớm thế này, hai người đi vào trong chỉ có mấy người làm thuê Ấn Độ, cho nên được họ chăm sóc rất nhiệt tình. Người bán hàng lấy đủ mọi loại nhẫn kim cương cho họ xem, lại nói: “Nếu không thích ở đây chúng tôi còn kim cương thô, có thể đặt làm nhẫn”. Vì là đồ dùng để kết hôn, cho nên Tĩnh Uyển rất coi trọng, đặt trước mắt lựa chọn mấy chiếc nhẫn đó đều có kiểu dáng bình thường, chọn mãi cũng không có chiếc nào vừa ý. Mấy người bán hàng lại lấy đá kim cương ra cho họ xem, những viên đá kim cương đó đặt trên lớp lụa nhung đen, lấp lánh giống như ánh sao trong đêm. Người bán hàng thấy là khách sộp nên rất nịnh bợ, nói: “Chỗ chúng tôi có một viên yến vàng rất đẹp, kim cương vàng vốn rất hiếm, viêm kim cương vàng ba cara này càng hiếm hơn”.Vừa nói vứa lấy ra một chiếc hộp hình quả đào, nho nhỏ mở ra cho họ xem.

Tĩnh Uyển nhìn viên kim cương yến vàng đó, lòng không kìm được nghĩ đến chiếc vòng Mộ Dung Phong từng tặng cô, ánh sáng lấp lánh rực rỡ ấy, gần như làm người ta chói mắt. Gương mặt cô bất giác đờ đẫn, chỉ trong giây lát đó Kiến Chương đã thấy vẻ mặt của cô, anh cũng đã nhớ ra, sau khi cô bị thương lần đầu gặp cô, trên tay cô đeo một chiếc lắc tay khảm kim cương yến vàng, dưới ánh đèn óng ánh như ánh sao, lóng la long lánh. Lúc đó anh chỉ lo lắng cho vết thương của cô, không hề nghĩ nhiều, nhưng bây giờ nhớ lại, ánh sáng của sợi dây chuyền đó dường như đang nhấp nháy trước mắt.

Anh nhớ đến lần về nước năm ngoái, cô nhìn thấy một vị vương phi đeo chiếc vòng tay nạm kim cương đó trên một tạp chí tiếng Anh, cứ khen ngợi mãi. Nhưng loại đá quý hiếm giá thành đắt đỏ này, các thương nhân bình thường cũng không mua nổi, anh nhìn ánh sáng lấp lánh của viên yến vàng , trái tim rơi thẳng xuống, ở nơi sâu thẳm trái tim cuộn trào sự lạnh lẽo, tuy là giữa hè nóng bức, nhưng bàn tay trong chốc lát lại lạnh đi.

Tĩnh Uyển mỉm cười nói với anh: “Em không thích kim cương vàng kiểu này, nhìn tối tối không bằng kim cương thường”. Anh cũng mỉm cười với cô, cô tinh mắt bỗng nhiên phát hiện trên tay người bán hàng còn một chiếc hộp liền hỏi: “Cái này cũng kim cương vàng sao?”. Người bán hàng đó nói: “Đây là kim cương hồng mấy ngày trước có một vị khách thích nó, vì chê khảm không đẹp, thay đổi kiểu dáng khảm lại, đã trả tiền rồi”. Tĩnh Uyển ồ một tiếng người bán hàng mở hộp ra cho họ xem, đó là một viên kim cương khoảng ba cara, khảm khắc tinh xảo, Tĩnh Uyển vừa nhìn đã thấy thích nó.

Kiến Chương thấy cô thích liền bảo người bán hàng mang đến, thử đeo lên tay vô cùng vừa vặn, người bán hàng cười nói: “Ngón tay tiểu thư thon dài, cho nên đeo kiểu dáng này là đẹp nhất”. Tĩnh Uyển càng nhìn càng thích, Kiến Chương nói: “Đây là đồ người ta đặt, vậy chúng tôi đặt một chiếc theo mẫu này nhé”.

Người bán hàng đó cười nói: “Ngài biết đấy loại kim cương này đắt hàng mà lại khan hiếm. Hiện nay kim cương hồng và kim cương ngọn lửa rất hiếm, theo tôi được biết nguồn kim cương này trong nước bị quản lí chặt, nếu ngài muốn, chúng tôi đánh điện đến trụ sở của hàng, chuyển hàng từ nước ngoài về, chỉ phiền ngài phải đặt tiền trước”

Kiến Chương hỏi: “Tiền đặt cọc không thành vấn đề, có điều là cần bao nhiêu thời gian?”. Người bán hàng đó đáp: “Vốn có thể chuyển bằng đường sắt nhưng bây giờ Thừa Dĩnh khai chiến nên phải vận bằng đường biển, nếu nhanh thì ba tháng kim cương mới tới nơi.

Tĩnh Uyển vừa nghe thấy liền rất thất vọng, hôn lễ của họ sẽ tổ chức vào tháng sau, Kiến Chương vội hỏi: “Không thể nhanh hơn sao?”. Người bán hàng đó xua tay tỏ vẻ không có cách nào. Tĩnh Uyển nói: “Vậy thì thôi đi em chọn cái khác là được”. Cô tháo nhẫn ra đặt lại vào hộp, viên kim cương hồng đó ánh màu đỏ nhạt, giống một nụ hồng, khiến người ta không thể rời mắt.

Kiến Chương thấy cô luyến tiếc, không kìm được hỏi người bán hàng: “Thật sự không có cách nào khác sao?”

Người bán hàng đó ngẩng đầu lên nói: “Trùng hợp thật người đặt chiếc nhẫn này đến rồi, hay là hai người thương lượng xem?”

Hứa Kiến Chương ngẩng đầu lên nhìn, thấy một người thanh niên mặc âu phục, khí độ phi phàm, tuy tướng mạo không đặc biệt tuấn tú nhưng có phong thái ung dung, khiến người ta vừa nhìn đã cảm thấy anh ta rất xuất sắc. Tĩnh Uyển cũng nhận ra người này không tầm thường, lại nghe người bán hàng đó chào hỏi: “Trình tiên sinh”. Kiến chương thấy một nhân vật như vậy, rất muốn thương lượng với anh ta, liền nói rõ ngọn nguồn sự tình. Vị Trình tiên sinh này là người rất phóng khoáng, lập tức liền đồng ý: “Hai vị đã cần dùng gấp, đương nhiên tôi có thể giúp hai người hoàn thành tâm nguyện”. Kiến Chương quá đỗi vui mừng, luôn miệng cảm ơn, Tĩnh Uyển cũng thấy mừng vì may mắn bất ngờ.

Trình tiên sinh đó vừa phong độ lại vừa khiêm tốn. Kiến Chương rất cảm kích sau khi anh ta đi rồi liền nói với Tĩnh Uyển: “Nghe giọng nói của anh ta không giống người bản địa”. Tĩnh Uyển cũng thấy người này xuất sắc như vậy, không hề tầm thường. Người bán hàng đứng bên cạnh nói xen vào: “Anh ta chính là em ruột của trưởng tài vụ tiền nhiệm họ Trình”

Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc lớn có tiếng,không chỉ ở Ủng Nam mà còn lừng lẫy tiếng tăm khắp hai mươi tỉnh giang nam, có câu nói, Ủng Nam nắm tiền tài Giang Nam, họ Trình nắm tiền tài Ủng Nam, hai mươi mốt tỉnh Giang Nam, tuy An Quốc quân của Khương Song Hỷ và Hộ Quốc quân của Lý Trọng Niên mỗi người chiếm một phương, nhưng với họ Trình ở Ủng Nam đều phải e dè. Họ Trình là gia tộc lớn ở Giang Nam, trong gia tộc ngoài những thân sĩ nổi tiếng khắp các tỉnh Giang Nam, con cả Trình gia Trình Doãn Chi từng làm trưởng tài vụ suốt hai nhiệm kì, tuy chỉ là tài vụ trưởng nhưng vì thao túng nội các, là gia đình rất có danh tiếng. Kiến Chương nghe nói là người của Trình gia, “ồ”một tiếng hiểu ra luôn miệng nói: “Chẳng trách ,chẳng trách”.

Không kịp nói yêu em – Chương 16

Chương16

Họ chuẩn bị đồ đạc mấy ngày liền ,truớc khi kết hôn bận toàn chuyện vặt vãnh, bận bịu như thế nên từng ngày qua rất nhanh.Chỉ là thời cuộc biến động cuộc chiến lần này của Thừa Dĩnh rất khốc liệt, hàng ngày trên các báo đều đăng tình hình tiền tuyến, vì chiến sự khốc liệt Thừa quân quyết chiến nhiều ngày với Dĩnh quân từ Dư Gia Khẩu đến Lão Minh Sơn, hai bên quân số bị chết,bị thương không ngừng tăng, giằng co không từ bỏ.

Tĩnh Uyển tuy không quan tâm thời cuộc nhưng Doãn Sở Phàn vẫn thỉnh thoảng đọc báo, vừa ngậm tẩu thuốc nói: “Xem tình hình còn đánh nữa, cứ tiếp tục thế này chỉ sợ gạo tăng giá”. Doãn phu nhân nói: “Kệ họ đánh sao, không lẽ đánh đến cả thành Càn Bình này sao? Doãn Sở Phàn nhả một hơi thuốc nói: “Phu nhân bà không hiểu được đâu, không sợ ngộ nhỡ chỉ sợ chẳng may, tích trữ chút lương thực còn hơn không chuẩn bị gì”. Doãn phu nhân nghe ông nói như vậy đâm ra lo lắng: “Nếu thật sự đánh đến Càn Bình, vậy phải làm thế nào, hay là chúng ta đến phía nam tránh.”

Doãn Sở Phàn cười ha ha nói: “Mộ Dung Phong muốn đánh đến Càn Bình, e rằng cũng chưa dể dàng như vậy”. Tĩnh Uyển tựa vào ghế sofa, cầm con dao nhỏ gọt hoa quả, ngây người ra chút nữa cắt vào ngón tay mình. Doãn Sở Phàn lật báo, nói: “Bà xem Thừa quân mất Cẩm An lại không đánh hạ Cát Chẩn, theo tôi thấy Thừa quân có thể giữ Dư Gia Khẩu hay không vẫn chưa biết trước được.” Cô vốn đã dừng lại thấy cha làm như vô ý liếc về phía mình, liền vội vã tiếp tục gọt hoa quả, cô gọt lớp vỏ nông mà mỏng, từng vòng vòng chầm chậm tuột khỏi ngón tay , nước quả lạnh lẽo chảy trên tay, dính dính cô không dám nghĩ gì, hết sức tập trung vào việc gọt hoa quả, như thể đó là việc quan trọng nhất trên đời này.

Đến giữa tháng Tám ngày kết hôn gần kề, hôm đó vốn là ngày đại lễ, cho nên từ sáng sớm trên dưới Doãn gia đều bận rộn. Tĩnh Uyển cũng dậy từ rất sớm, người trong nhà đều bận bù đầu, chỉ một mình cô là không phải làm gì. Ăn sáng xong cô đành ngồi xem mẹ kiểm kê danh sách khách mời. Khắp trong ngoài nhà đã trang trí như mới, người làm đang treo dây màu, cờ màu trong không khí rất rộn rã. Hoa cỏ trong vườn sum suê xanh tươi tốt, ánh nắng chiếu vào dường như phát sáng lấp lánh .

Tĩnh Uyển không có việc gì làm bèn vào trong vườn, trong vườn có một cây nhài đang nở rộ hoa, hương thơm ngào ngạt, những bong hoa trắng nhỏ xinh, giống một chiếc cúc bạc, tinh xảo nhỏ nhắn điểm xuyết trong lá. Cô tiện tay háimột cành, định cài lên tóc, bác Ngô ở bên cạnh cười nói: “Hôm nay là ngày đại hỷ, tiểu thư phải cài hoa bên cạnh mới có không khí vui mừng chứ.” Tĩnh Uyển sững sờ lại bỏ hoa xuống.

Hôm đó tuy không mời khách nhưng Doãn gia là gia tộc lớn ở Càn Bình, cho nên trong nhà vẫn rất náo nhiệt. Hơn nữa dù họ là gia đình kiểu mới, nhưng ngày này con gái cũng không tiện lộ mặt nên Tĩnh Uyển ở một mình trên lầu.

Cô nghe tiếng cười nói ồn ã dưới lầu, trong lòng buồn bực khó nói, ôm gối ngồi trên giường thất thần, ngay cả bản thân cũng không biết mình nghĩ gì. Trên cây bên ngoài cửa sổ treo đầy cờ nhỏ đủ màu tung bay trong gió khiến cô nhớ đến lúc ở Nga, vào dịp giáng sinh trên cây thông treo đầy đồ chơi nhỏ đủ loại, rực rỡ sắc màu, tràn ngập trong tầm mắt, sự náo nhiệt đó khiến người ta không thở nổi.

Cô xuống giường mở chiếc hộp màu tím ra, chiếc đồng hồ đó lặng lẽ nằm trong hộp. Cô lấy nó ra bất giác dùng hai ngón tay lướt qua hai chữ “Bái Lâm” đó, hai tiếng ấy dường như muốn bật ra khỏi bờ môi. Đồng hồ tích tắc tích tắc giống như nhịp tim cô rõ ràng đến mức khiến cô phải sợ hãi. Cô chậm rãi đóng chặt nắp, nhớ lại lúc chia tay sau lần đầu gặp mặt, trong bóng tối anh quay đầu lại, còn trước mắt cô nhập nhòa, vốn không nhìn rõ mặt anh, bên ngoài cửa sổ sân ga sáng đèn, những tiếng bước chân hỗn độn. Tại sao anh để lại đồng hồ cho cô, cuộc gặp gỡ kinh hoàng đó, anh để lại cái này cho cô – là ý trời sao? Nhưng anh và cô rõ ràng không liên can với nhau, càng không thể có tương lai.

Tiếng bác Ngô vang lên bên ngoài: “Tiểu thư, tiểu thư…” Cô tự dưng giật mình, tiện tay nhét chiếc đồng hồ xuống gối, hỏi: “Vviệc gì thế?”. Bác Ngô đi vào nói: “Có bức thư gửi cho tiểu thư”. Cô thấy có một bức thư từ nước ngoài, bên trên chỉ viết : “Gửi tiểu thư Doãn Tĩnh Uyển”. Thư dán rất kín cô nhất thời không để ý, vì các bạn học của cô thường sai người gửi thư như thế này.

Bác Ngô cũng tưởng đó là một bức thư bình thường, ai ngờ Tĩnh Uyển vừa mở ra xem, sắc mặt liền trắng bệch, đưa tay ra nắm lấy cánh tay bác Ngô: “Người đưa thư đâu?”. Bác Ngô thấy tay cô lạnh ngắt, giật mình nói: “Ở dưới lầu”. Trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cô cố gắng trấn tĩnh “ồ” một tiếng nói: “Cháu còn có mấy lời nhờ anh ta chuyển đến Vương tiểu thư, cháu xuống dưới gặp anh ta chút”. Cô soi gương sửa tóc, thấy tay mình đang run lẩy bẩy, may mà bác Ngô tưởng là người đưa thư của Vương tiểu thư thật, liền nói: “Vậy tôi đi lấy giúp tiểu thư hai đồng tiền”. Tĩnh Uyển hỏi: “Lấy hai đồng tiền làm gì?”. Bác Ngô cười: “Tiểu thư à, hôm nay cô vui đến mức hồ đồ rồi, người hầu của Vương tiểu thư đưa thư đến, nên thưởng cho người đó hai đồng chứ”.

Tĩnh Uyển giờ mới tĩnh táo lại, cũng cười cười nói: “Không cần đâu ở đây cháu còn mấy đồng lẻ, phía trước đông khách , bác bảo anh ta đến vườn hoa đợi cháu”. Bác Ngô vâng lời liền đi ra, Tĩnh Uyển chỉnh lại quần áo, cố gắng trấn tĩnh rồi mới xuống lầu. Khách khứa đều ở phía trước, trong phòng khách rất im ắng chỉ có một người đàn ông lạ mặt đứng đó, người đó thấy cô từ xa đã cung kính hành lễ.

Tĩnh Uyển nói: “Không cần khách sáo”. Người đó nói: “Tôi họ Nghiêm, Doãn tiểu thư , có một thứ muốn mời cô xem qua”. Nói xong anh ta đưa cho cô một hộp gấm bằng hai tay. Tĩnh Uyển lòng rối như tơ vò, còn hơi chần chừ, người đó đã mở nắp hộp ra, hóa ra bên trong lại là một cành lan Thiên Ly. Khóe miệng cô hơi mấp máy, người đó đã nói: “Doãn tiểu thư chắc đã nhận ra loại hoa lan này, mười sáu tỉnh phía Bắc chỉ có một cây lan duy nhất. Người đó tuy mặc thường phục nhưng vẻ mặt cảnh giác, rõ rang là người rất nhanh nhẹn, lanh trí. Cổ họng cô khô rát: “Anh có việc gì không?”. Khẩu khí của người đó vẫn rất cung kính: “Mong Doãn tiểu thư nể mặt cây lan Thiên Ly này có thể đi chỗ khác nói chuyện không?”

Cô nghĩ một lát, cuối cùng hạ quyết tâm: “Được thôi”. Người đó kính cẩn nói: “Xe của chúng tôi ở bên ngoài, nếu tiểu thư thấy không tiện có thể đi xe của mình”. Tĩnh Uyển nói: “Không cần”. Cô không hề nói thêm gì chỉ đi xuống lầu nói với bác Ngô mình phải ra ngoài một chuyến, bác Ngô nói: “Ôi chao tiểu thư, hôm nay là ngày đại hỷ đó”. Tĩnh Uyển nói: “Vương tiểu thư ốm nặng, dù thế nào cháu cũng đi gặp mặt cô ấy”. Bác Ngô biết tính khí cô, đành lấy áo khoác và ví cho cô rồi tiễn cô ra ngoài.

Cô lặng lẽ ra khỏi nhà vì trong nhà khách khứa đông nên bên ngoài đậu rất nhiều xe. Cô để Nghiêm tiên sinh đó dẫn đường, lên một chiếc xe rời đi, cũng chẳng ai chú ý đến cô. Chiếc xe đó chạy một mạch ra khỏi thành, tim cô đập thình thịch như trống đánh liên hồi. Cảnh vật bên ngoài cửa xe lướt qua, xe đi rất nhanh cô hỏi: “Đi dâu vậy?”. Vị Nghiêm tiên sinh đó nói: “Đến Càn Sơn”. Cô “ồ” một tiếng rồi không hỏi nữa. Càn Sơn nằm ở ngoại ô Càn Bình người giàu trong Càn Bình đều có biệt thự ở Càn Sơn, học theo cách của người Tây chủ nhật cả gia đình ra khỏi thành lên núi nghỉ ngơi. Hôm nay vừa hay là chủ nhật,nên con đường lên Càn Sơn xe đi đi lại lại như mắc cửi.

Xe lái thẳng lên núi, vùng đó toàn biệt thự lác đác xen giữa núi, mỗi căn cách nhau rất xa, dưới ánh nắng chỉ thấy nhà trắng, mái đỏ kiểu Tây lướt qua cửa xe. Đường núi ngoằn ngoèo, tuy đường bằng phẳng nhưng trái tim của Tĩnh Uyển chỉ không ở yên, giống như linh cảm được chuyện gì đó. Cô chỉ mong đi hết con đường này, nhưng cũng thầm mong tốt nhất vĩnh viễn không đi hết đoạn đường này.

Cuối cùng cũng đến nơi, một biệt thự nằm rất sâu, xe đi thẳng vào trong, hai bên đường đều là cây cối cao ngắt thuận theo thế núi lên trên, rẽ mấy lần mới nhìn thấy căn nhà kiểu Tây thấp thoáng sau tán cây xanh. Tĩnh Uyển biết rõ nơi này không giống với các biệt thự nơi khác ở Càn Sơn, nhưng trái tim chỉ thấp thỏm không yên, đến tận lúc xuống xe cảm giác do dự và bất an không thể giải thích như hình với bóng.

Người hầu mở của xe giúp cô, vị Nghiêm tiên sinh đó đi trước dẫn đường, trong biệt thự bài trí rất tiện nghi, nhưng cô nào có tâm trạng quan sát kỹ, chỉ thấy trong phòng khách có người đi ra, hình bóng đó rất quen thuộc, trái tim cô trùng xuống, cũng không biết là vui hay buồn, khẽ gọi một tiếng “Hà tiên sinh”. Cô dừng lại một lát rồi lại nói: “Hóa ra là anh”

Hà Tự An vẫy vẫy tay, cảnh vệ họ Nghiêm đó cũng đi ra ngoài. Hà Tự An rất khách sáo hành lễ nói: “Doãn tiểu thư vì chúng tôi không tiện lộ mặt nên mới dùng cách này mời cô đến, thất lễ rồi mong cô tha thứ. Tĩnh Uyển mĩm cười nói: “Chiến sự Thừa – Dĩnh đang quyết liệt anh mạo hiểm đến Càn Bình chắc có việc quan trọng nhưng không biết Tĩnh Uyển có giúp được gì không?”. Hà Tự An cười khổ sau đó thở dài một tiếng. Tĩnh Uyển biết anh là cánh tay đắc lực của Mô Dung Phong thấy anh buồn bã không vui, mặt mài chau lại bất giác hỏi: “Cậu Sáu sao rồi?”

Hà Tự An không trả lời chỉ đưa tay ra phía căn phòng ở hành lang. Tim Tĩnh Uyển nhói lên, cô không dám nghĩ gì chỉ chậm rãi bước đến, cuối cùng mở cửa phòng ra, cảm thấy hơi thở dường như tắc nghẹn, cả cơ thể cứ đờ ra.

Trong giây lát cô, nghi ngờ mình nhìn nhầm, nhưng rõ ràng như thế. Tuy ánh sáng trong phòng âm u anh mặc một chiếc áo dài, dáng vẻ giống con cái nhà giàu bình thường, nhưng hình bóng lại quá đỗi quen thuộc, ánh mắt vẫn như thế, trong đôi mắt ấy lóe lên những tia nắng rực rỡ, lại như có những ánh sao mờ xanh đang nhấp nháy.

Giống như dời núi lấp bể, tay cô đặt trên ngực, vì trái tim ở đó đập gấp như thế, giống như có thứ gì muốn nhét vào trong, cây lá bên ngoài cửa sổ lay động trong gió, còn cô giống chiếc lông vũ trong gió lớn, bất đắt dĩ lại bị kéo vào vòng xoáy đó. Cô biết tất cả đều là thật, nhưng xung quanh yên ắng, bóng cây in trên nền nhà, tán cây lưa thưa xen kẽ, giống như cảnh quay lặng như tờ trong phim, còn anh chỉ im lặng đứng ở đó, trong ánh mắt có sự điên cuồng và nồng cháy không thể cưỡng lại. Cô đứng đó như ngẩn ngơ.

Giọng nói của cô xa đến mức không giống như của mình: “Anh điên thật rồi”.

Anh mỉm cười, nụ cười của anh lẫn vào trong bóng cây, giống như một tia nắng nắng ngẩn ngơ. “Anh điên thật rồi mới thích em đến điên như vậy.”

Câu nói này anh đã từng nói lúc ở Thừa Châu, trên môi cô vẫn còn lưu lại sự nồng nhiệt hôm đó của anh, mùi hương bạc hà, mùi khói thuốc súng nhàn nhạt đó là mùi vị quen thuộc nhất. Anh gần cô như thế, chân thật như thế nhưng dường như ở giữa là cả một chân trời không thể vượt qua, cô nhìn anh giọng nói đượm sự bất lực: “Anh không muốn sống nữa à?”. Anh là chủ soái Thừa quân, tình hình chiến sự Thừa – Dĩnh gay go như thế anh lại dám đến chỗ của địch. Nếu bị phát hiện…

Anh chầm chậm khép lại nụ cười: “Tĩnh Uyển anh muốn để cho em biết, em không thể lấy người khác. Anh lấy mạng mình ra để gặp em, anh chỉ cần em đi theo anh”. Cô yếu ớt đến cực điểm, cô luôn cảm thấy bản thân mình rất kiên cường, nhưng thời khắc này chân lại mềm nhũn, như đứng không vững. Giọng nói cô nhẹ têng mà yếu ớt: “Em không thể”.

Anh nắm lấy tay cô mạnh đến mức khiến cô đau đớn, nhưng sự đau đớn đó kèm theo chút vui vẻ khó nói thành lời, giống như mặt băng nứt ra những đường rạn nhỏ cô không dám đối diện với sự sụp đổ vang dội đó. Cô chưa từng bất lực như bây giờ, chưa từng hoảng loạn như thế, chỉ tuân theo bản năng: “Anh mau đi đi, em xin anh mau đi đi, em sắp kết hôn rồi”. Anh nhìn thẳng vào cô: “Tĩnh Uyển đời này em chỉ có thể gả cho anh, anh muốm em gả cho anh”. Rồi anh ôm cô thật chặt vào lòng . Cảm giác quen thuộc mà chân thật bao vây lấy cô, cô yếu ớt ngẩn đầu lên, trong mắt anh chỉ có bóng hình cô, chỉ có cô. Hơi thở anh ấm ấm phả vào mặt cô, giọng nói anh ù ù vang lên bên tai cô: “Tĩnh Uyển đi theo anh”. Lý trí còn sót lại của cô đang đau khổ giằng xé: “Anh mau mau đi đi, nếu để người ta biết thân phận anh…”. Trong mắt anh dường như có vẻ kì lạ, rực rỡ giống như tia nắng: “Em đang lo cho anh sao?”. Cô không hề lo lắng cho anh, cô tự lừa mình dối người lắc đầu, anh bỗng hôn cô điên cuồng, nụ hôn của anh gấp gáp mà say đắm, đem theo sự cưỡng đoạt không cần nghi ngờ, nuốt lấy hút lấy hơi thở yếu ớt của cô. Hơi thở cô hỗn loạn, cả thế giới chỉ có hơi thở của anh lấp đầy tất cả, môi anh như ngọn lửa, anh nhen lên ngọn lửa trong tim cô. Xa cách lâu như thế …dường như đã xa anh lâu lắm, anh nhớ nhung cô, khát khao cô như vậy. Gương mặt cô nóng bừng, cả cơ thể như đang bốc cháy, cô khát khao theo bản năng, sự nồng nhiệt lạ lẫm nhưng lại quen thuộc, sự nồng nhiệt có thể đốt cháy tất cả như thế. Cơ thể anh như chấn động, chuyển động càng nóng bỏng, càng sâu hơn. Tay anh bỏng rát, giống như que hàn, in vào đó, ở đó liền có một cảm giác bỏng rát đau đớn, anh hút hết sự ngọt ngào trên trán cô, trong lúc vội vã anh không mở được hàng cúc tròn trên áo cô, anh lập tức kéo bung ra, cúc đứt vung vãi trên đất, vang lên tiếng roạt roạt, cô bỗng sực tĩnh, đẩy mạnh anh ra.

Hơi thở của anh vẫn gấp gáp, cô kéo lấy cổ áo mình, như thể kéo lấy trái tim mình, cô chỉ biết hoảng hốt và sợ hãi, cô cảm thấy sợ anh, sợ hãi bất cứ đụng chạm nào của anh. Cô thu mình lại anh đưa tay ra, cô nghiêng đầu đi theo bản năng, cô dũng cảm, cô không hề sợ anh mà sợ sự nồng nhiệt anh mang đến cho cô. Sự nồng nhiệt đó không thể chấp nhận được, lại không có cách nào khống chế, cô nghĩ đến Kiến Chương. Gần như tuyệt vọng, Kiến Chương không thể cho cô sự nồng nhiệt đó nhưng Kiến Chương có thể cho cô hạnh phúc. Hạnh phúc mà cô muốn, cô luôn biết bản thân mình cần gì, xưa nay cô đều có thể bình tĩnh mà nắm giữ.

Cô ngẩn đầu lên anh đang nhìn cô, trong đôi mắt ấy cháy lên sự khát vọng và đam mê không bao giờ hết, trái tim cô tê dại đau đớn, nhưng giọng nói cô đã trấn tĩnh, giống như ngay cả bản thân cô cũng tin rằng như thế: “Em không yêu anh, em càng không thể đi với anh”.

Anh nhìn cô không thể tin được, gần như khiến cô chột dạ, giọng nói của anh khàn đi: “Em không yêu anh ư?”. Trên trái tim cô chằng chịt vết sẹo ngang dọc, trong chốc lát dường như đau đớn khiến người ta ngạt thở. Giọng nói của anh bình bình, nhưng kèm theo sự giận dữ đáng sợ: “Em vẫn còn nói với anh một câu như thế sao? Nghe nói em kết hôn anh liền đến đây như phát điên. Không quan tâm đến tính mạng, không quan tâm đến chiến sự nước sôi lửa bỏng ở tiền tuyến, không quan tâm đến một nửa giang sơn, vậy mà em nói với anh một câu như thế sao?”.

Cô cố chấp quay mặt đi, khuôn mặt lặng lẽ nở nụ cười: “Đúng thế em không yêu anh”. Anh im lặng một lúc lâu, mới nói: “Em nói như vậy anh cũng không có cách nào, nhưng anh…nhưng anh…”.Anh lặp lại hai lần, cuối cùng không nói ra được vế sau, chỉ quay mặt đi.

Không kịp nói yêu em – Chương 14

Chương 14

 

Bên ngoài vang lên những âm thanh khe khẽ, Tĩnh Uyển hơi hoảng hốt quay mặt đi, là trời mưa. Mưa xuống rất nhanh, tiếng mưa tí tách rớt lên cành, lá cây. Vốn là đầu hạ, nhưng vì trận mưa này luôn khiến người ta nhớ đến cuối thu, một chút lạnh lẽo thấm vào trong tim gan, dường như cô lại trở nên sợ hãi.

 

Cô nhớ đến lúc nhỏ, chỉ khoảng bảy, tám tuổi, gia đình vẫn còn sống ở căn nhà cũ, mùa hè trời bỗng đổ mưa, cô và Kiến Chương ở sau vườn, cô lấy gạch chặn rãnh nước, cả vườn toàn là nước, cô kéo  anh nghịch nước ở trong vườn. Toàn thân ướt đẫm, giống như hai chú chim ướt mềm, nhưng vui vẻ biết bao, tiếng cười giòn tan biết bao. Cuối cùng vú nuôi tìm thấy họ, bà vừa lo vừa bực kéo họ vào phòng, cha rất tức giận thuận tay liền lấy chổi lông gà đánh cô, Kiến Chương sợ hãi quỳ xuống: “Bác, bác, là cháu nhát thời nghịch ngợm, không liên quan đến em ấy”.

 

Lúc nhỏ anh luôn gọi cô là em gái, bảo vệ cô, lén lút viết chữ giúp cô, vì cô không thích luyện chữ, nhưng hàng ngày phải tập viết chữ nộp bài, ở nhà anh viết giúp cô mấy tờ liền, để cô đối phó. Đến bây giờ, nét chữ của anh cũng giống cô mấy phần.

 

Không biết từ bao giờ, anh không gọi cô là em gái nữa, là lúc đi học sao? Cô học trường nữ, là trường của người nước ngoài lập ra, bạn học trong trường đều là tiểu thư con nhà giàu quyền quý. Mới tí tuổi cũng biết so đo, so gia thế, so thời thượng, so quần áo mới, cô luôn là người xuất sắc nhất, cái gì cũng phải hơn người ta. Sau khi đi du học, một bạn học thân thiết viết thư cho cô, bạn học đó đính hôn với con trai tổng lý nội các, ra vẻ vô ý nhưng câu chữ đều toát lên sự khoe khoang. Cô từng hơi tức giận, nhưng nghĩ lại Kiến Chương dịu dàng chu đáo, trên thế giới này không có người thứ hai đối xử với cô tốt hơn anh.

 

Mộ Dung Phong thấy cô thẫn thờ, liền đi lại đóng cửa sổ, nói: “Ban đêm gió mạnh, vết thương của em mới lành, em đừng để bị lạnh”. Anh quay đầu lại nhìn cô, mỉm cười với cô.

 

Trái tim cô rối loạn đến cực điểm, nghĩ đến ngày hôm đó ở vườn hoa lan, những lời anh nói. Lúc đó bản thân hơi cảm động, cô lập tức nghĩ đến Kiến Chương, hễ nghĩ đến Kiến Chương trong lòng lại đau đớn. Từ lúc quen nhau, Mộ Dung Phong giống như một mũi tên bay, làm rối loạn tất cả nhịp điệu của cô, cô vốn cho rằng cuộc đời thuận buồm xuôi gió, yêu Kiến Chương, kết hôn, sinh con, yên ổn hết nửa đời còn lại, cả đời cứ như thế.

 

Nhưng anh không vậy, anh mở ra cho cô một thế giới, thế giới này có sự phồn hoa rực rỡ mà người phàm ước ao, còn rất nhiều nguy hiểm và đổi thay. Đáng sợ như thế, rực rỡ sáng rọi, lại thịnh vượng như thế, giống như sự mê hoặc lớn nhất kích thích cô. Anh nói: “Anh muốn đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trên thế giới có mấy người đàn ông có thể tỏ tình với người phụ nữ mình yêu như thế chứ? Cô không hề tham giàu sang phú quý, nhưng cô tham lam cái tương lai tươi mới, kích thích không thể đoán trước đó. Chỉ là sâu thẳm tận đáy lòng luôn tồn tại một sự sợ hãi, không cách gì nắm giữ được. Không dám nghĩ tới. Đến hôm nay anh nói hết cả, sự sợ hãi đó lại càng rõ ràng và nặng nề hơn, cô sắp xếp những ý nghĩa hỗn loạn, dần dần thấy được đầu mối, sự sợ hãi đó trở thành một sự lạnh lẽo, lạnh đến tận tim gan, cô biết không có cách nào tự lừa dối mình nữa, sự nghi ngờ luôn giấu trong lòng cô không thể coi như không thấy. Bỗng nhiên cô rùng mình, ngẩng đầu lên.

 

Cô nói từng câu từng chữ rõ ràng: “Cậu Sáu, có một việc anh phải nói rõ cho em biết, anh đã làm gì với Kiến Chương?”.

Dường như anh hơi bất ngờ, lại dường như sớm đã dự đoán trước, khuôn mặt đầy vẻ phức tạp khó nói, ánh mắt sáng, khóe miệng nhướn lên, anh nói: “Anh biết sẽ có ngày em hỏi như vậy”. Tim cô lạnh đến cực điểm. Giọng anh vẫn điềm nhiên: “Anh không làm gì cậu ta hết, anh chỉ để cậu ta hiểu rõ quan hệ lợi hại. Tĩnh Uyển, cậu ta không yêu em hết lòng, ít nhất cậu ta không chịu vì em mà từ bỏ việc làm ăn ở Thừa Châu, từ bỏ tiền tài lợi ích”.

 

Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy hụt hẫng không gì sánh nỗi, cũng không biết là thất vọng vì Kiến Chương, hay thất vọng vì anh nói thẳng ra như vậy, trong mắt tràn ngập tuyệt vọng. “Quả nhiên anh bỉ ổi như thế”. Tim anh thắt lại, anh không hề giận, mà cảm thấy đau đớn: “Bỉ ổi? Anh cũng chỉ để cậu ta tự chọn, không thể nói là anh bỉ ổi. Tĩnh Uyển, tất cả mọi thứ trên thế giới này đều do ta tự mình giành lấy. Cậu ta ngay cả tranh giành cũng không dám, làm sao có thể bảo vệ được em? Ngay cả người con gái cậu ta yêu cũng không bảo vệ nổi, còn là đại trương phu gì chứ?”.

 

Đáy mắt cô cháy lên ngọn lửa âm u: “Anh lấy quyền lực, sức mạnh ép anh ấy, anh ấy còn có thể chọn thế nào?”.

 

Anh nắm lấy tay cô: “Tĩnh Uyển, anh yêu em, cho nên anh muốn để cậu ta biết, anh yêu em hơn cậu ta. Đây không phải là anh dùng thủ đoạn, anh chỉ bày ra sự thật cho cậu ta xem”. Cô thản nhiên đáp: “Anh không thể lấy tình yêu làm cái cớ, biện hộ cho sự cưỡng đoạt của anh”. Mắt anh lóe lên tia lửa giận: “Cưỡng đoạt, hóa ra em nghĩ như vậy. Doãn Tĩnh Uyển, chắc em quá xem thường Mộ Dung Phong anh rồi, nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, tên họ Hứa kia e rằng ngay cả tính mạng cũng không giữ được; nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, anh sẽ không coi trọng em, yêu em, đến bây giờ cũng không động vào một ngón tay em. Anh tự hỏi hơn hai mươi năm nay, anh chưa từng hết lòng vì ai như thế, thứ em muốn, anh làm mọi cách đem đến trước mặt em, anh đối xử với em như thế nào, cứ tưởng em đều rõ cả. Tại sao? Tại sao em lại đối xử với anh như vậy?”. Ánh mắt anh như muốn giết người. Anh đáng sợ như thế, Tĩnh Uyển không biết vì sao, bỗng lấy hết can đảm, ngẩng mặt lên nói lớn: “Vì em không yêu anh”.

 

Câu nói đó rõ ràng rành rọt, toàn thân anh chấn động, hình như cô cũng bất ngờ. Anh nhìn cô, giống như nằm mơ, anh “ừ” một tiếng, rất lâu sau, mới nói nhỏ: “Em không yêu anh ư?”. Tim cô giống như nước đang sôi, vô số bọt sủi lên, không biết vì sao như muốn nứt toác ra, cô cố gắng nén xuống, như nói với chính mình, từng tiếng từng từ  đều rất nặng nề: “Em không yêu anh”. Bàn tay anh lạnh ngắt, khớp xương cứng đờ nắm lấy tay cô, lực tay như bỗng không chịu khống chế, tay cô đau nhức, nhưng tim cô càng rối loạn hơn, giống như một ấm nước sôi trào hết ra ngoài, sau sự đau đớn là cảm giác tê dại, biết rõ sau cơn tê dại sẽ đau đớn đến tận xương tủy, nhưng cô chỉ nghĩ: Mình không thể nghĩ nữa, cũng không muốn nghĩ nữa.

 

Cô chầm chậm rút tay ra, từng chút từng chút một, rồi cô quay mặt đi, nói: “Cậu Sáu, mời ra ngoài, em phải nghỉ ngơi rồi”.

 

Mộ Dung Phong nói: “Anh biết em sẽ oán trách anh, nhưng anh chỉ muốn nói cho em thấy rõ bộ mặt thật của cậu ta, cậu ta cứ một mực nói yêu em, nhưng hễ nguy hại đến lợi ích cá nhân và gia đình là lập tức bỏ em mà đi. Tĩnh Uyển, em vẫn không hiểu sao?”.

 

Trong lòng cô trống rỗng, cảm giác còn khó chịu hơn cả buồn bã, dường như ai đó đang khoét đi một miếng trong tim, rồi cố nhét vào một thứ gì đó cứng như đá vào, cô kháng cự lại sự ép buộc này theo bản năng, ngẩng mặt lên, cô chầm chậm nở nụ cười: “Cậu Sáu, anh nói đúng, anh chỉ muốn cho em thấy bộ mặt thật của anh ấy, nhưng cuộc đời là thế, đều là bất đắc dĩ, chẳng lẽ Cậu Sáu có thể vì Tĩnh Uyển từ bỏ sinh mệnh của gia đình và bản thân, một nửa giang sơn sao?”.

 

Anh nhất thời sững sờ , rất lâu sau mới gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô nói tiếp: “Cậu Sáu ,việc bản thân mình không thể không làm thì đừng yêu cầu người khác, chẳng lẽ ngay cả đạo lý này anh cũng không hiểu”.

 

Tim anh thắt lại, vẻ mặt cô lãnh đạm mà xa xôi, sự xa xôi đó khiến tận sậu đáy tim anh đau đớn, anh chưa từng cảm thấy bất lực như vậy, cuộc đời hơn hai mươi năm chưa từng có thứ gì anh không đạt được, hơn nữa, anh biết rõ vẫn còn có thứ tốt hơn đang đợi anh. Anh có hoài bão lớn, anh có tất cả mọi thứ trên thế giới, nhưng duy nhất chỉ có thời khắc này khiến anh rõ ràng cảm thấy đang mất mát, sự mất mát đó khiến anh bất lực, anh muốn nói gì đó, nhưng một câu cũng không nói ra được.

 

Mưa bên ngoài càng lúc càng lớn, tiếng mưa rào rào, nghe càng thêm hỗn loạn đến kỳ lạ. Cô hơi cúi mặt, đôi hoa tai lạo xạo cọ vào cổ áo, dưới ánh đèn hai chiếc bóng nhỏ đung đưa, in lên chiếc sườn xám bằng lụa Ỷ Vân màu vàng cam của cô, thứ lụa Ỷ Vân vốn rất mỏng và trơn, dưới ánh đèn ánh lên ánh sáng trắng lành lạnh, anh nhớ lại lúc nãy ôm cô vào lòng, lớp lụa lạnh lẽo áp vào cánh tay anh, chỉ có cô là ấm nóng, khiến cuộc đời có sự vu vẻ mê hoặc,giống như con thiêu thân lao mình vào lửa.

 

Nhưng bây giờ chỉ có sự lạnh lẽo của lụa lưu lại trên cánh tay anh, sự lạnh lẽo đó chầm chậm chảy vào trong tim, bung ra nỗi đau đớn không thể kìm nén. Anh biết rõ chỉ còn lại sự hụt hẫng, hoa tai của cô vẫn đang lay động, như một trái tim không an phận, lay động khiến anh cũng trở nên hoảng loạn, không có cách nào nghĩ kỹ.

 

Năm nay Thừa Châu nhiều nước, trong tháng năm đã mưa rất nhiều trận lớn, đến tháng sáu âm lịch ngay cả sông Thừa Giang cũng đầy nước, nước sông nổi lên màu xanh lục, xoáy nước đục mà siết, sóng nước nhấp nhô lên xuống như vô số những con ngựa hoang không an phận, gào thét phi đi, như bất cứ lúc nào cũng muốn vượt qua bờ đê, tràn vào thành Thừa Châu.

 

Sáng nay lại mưa lớn, Hà Tự An cầm ô bước thấp bước cao đi trên đê, bùn nước lầy lội ngập đến tận cẳng chân. Trong màn mưa trắng xóa, thấy xa xa có khoảng mười chiếc ô lớn, đám người đang quan sát chỉ trỏ dưới bờ đê, trong lòng vui mừng, Hà Tự an rảo bước thở dốc đi đến: “Cậu Sáu!”.

 

Tuy xung quanh đều che ô, nhưng vì gió tạt quá mạnh, quần áo Mộ Dung Phong vẫn ướt đẫm, thấy Hà Tự An đến, trên mặt anh không biểu lộ điều gì, chỉ hỏi: “Sao rồi?”. Hà Tự An thấy xung quanh đều là cận vệ, có thêm mấy vị quan phụ trách thủy lợi đê điều, anh không tiện nói nhiều, đáp mập mờ: “Đối phương đã đồng ý rồi, nhưng điều kiện rồi… Cậu Sáu về rồi, tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ với Cậu Sáu”.

 

Mộ Dung Phong hơi nhướn mày, quay mặi đi nhìn nước sông đục ngầu cuồn cuộn, sông Thừa Giang từ Thừa Châu chảy qua nhiều tỉnh Giang Châu, Minh Châu, rồi nhập vào Vĩnh Giang. Phía Bắc Vĩnh Giang còn gọi là mười sáu tỉnh Giang Bắc, đến bây giờ chín tỉnh đã nằm trong tay anh, bảy tỉnh còn lại là Dĩnh quân khống chế, còn phía Nam Vĩnh Giang lại là vô số núi hồ, vựa cá vựa gạo. Mưa rất lớn, bong bóng trắng xóa nổi đầy trên mặt sông, không nhìn thấy bờ bên kia, anh gọi nhân viên thủy lợi đến, nói: “Bây giờ tình hình cấp bách, tôi chỉ có một câu, anh còn đê còn, anh cũng không cần tồn tại nữa”.

 

Người đó vốn là quan viên dân sự, sợ đến mức luôn miệng vâng dạ. Mộ Dung Phong cũng không để ý, chỉ nói: “Đi về”.

 

Từ lúc lũ lên, ngày ngày Mộ Dung Phong đều phải đích thân đến đê quan sát tình hình. Quay về phủ đốc quân, anh đi thay quần áo ướt. Hà Tự An đợi ở phòng khách, thấy Thẩm Gia Bình ở hành lang, anh và Thẩm Gia Bình vốn đùa nghịch không giữ lễ tiết quen rồi, anh đi công tác bên ngoài đã hơn tháng, vừa nãy không có cơ hội nói chuyện, lúc này liền vỗ vai Thẩm Gia Bình nói: “Này, lão Thẩm, có việc gì mà căng thẳng thế, nhìn dáng vẻ chau mày khổ sở của cậu kìa”. Thẩm Gia Bình trề môi, mặt ngước lên trên lầu, Hà Tự An vốn là người tinh ý, lập tức hiểu ngay: “Tôi nói Cậu Sáu sao trông không vui vẻ, trên xe cũng không nói với tôi một câu. Người đó sao thế?”.

 

Thẩm Gia Bình thở dài “hầy” một tiếng, nói: “Cậu đi công tác hơn một tháng đương nhiên không biết. Nói ra cũng kỳ lạ, lúc đầu vẫn rất tốt, sau đó có một ngày bỗng nhiên cãi nhau, mấy ngày nay Cậu Sáu cũng không đi hỏi thăm cô ấy. Cô ấy cũng chuyển về phòng khách ở rồi, hai người gặp mặt vô cùng khách sáo, Doãn lão gia lại xen vào giữa, xem ra vết thương của Doãn tiểu thực cũng sắp khỏi hẳn rồi, Doãn lão gia mấy ngày trước đặt vé, chiều nay cùng Doãn tiểu thư lên tàu về Càn Bình”.

 

Hà Tự An nghĩ một lát, hỏi: “Vậy ý của Cậu Sáu là cứ để như thế sao?”. Thẩm Gia Bình chần chừ một lát, nói: “Đã để cho cô ấy đi rồi, chắc là định kết thúc ở đây thôi”. Đúng lúc đó, có một người hầu từ phòng trên đi đến gọi người chuẩn bị xe, nói: “Cậu Sáu muốn tiễn Doãn tiểu thư đến nhà ga”.

 

Thẩm Gia Bình nghe nói Mộ Dung Phong muốn đích thân đi tiễn, vội vàng bố trí cảnh vệ. Không lâu sau Mộ Dung Phong quả nhiên xuống lầu, anh đã thay thường phục, nhìn thấy Hà Tự An, liền gọi nói: “Thúc An, đợi tôi về rồi nói”. Hà Tự An vâng một tiếng, chỉ thấy người hầu phòng xách túi hành lý lớn đặt lên xe trước, còn Mộ Dung Phong khoanh tay đứng ở phòng khách, lại thất thần nhìn trời mưa ngoài cửa.

 

Tĩnh Uyển tuy hạ quyết tâm, nhưng lúc phải đi trong lòng vẫn có cảm giác kỳ lạ. Từ sau ngày hôm đó, cô luôn tránh ở một mình với Mộ Dung Phong, còn Mộ Dung Phong cũng không hề ép buộc, mỗi lần gặp mặt anh cũng chỉ thất vọng nhìn cô, khiến cô không kìm được cảm thấy hoảng loạn. Tính cách cô vốn thoải mái, chỉ muốn giải quyết nhanh chóng, cho nên vết thương ổn hơn một chút liền quyết định lập tức về Càn Bình với cha.

 

Mưa bên ngoài vẫn như trút nước, vì mưa quá lớn, xe chầm chạp chạy trên đường, trên phố nước vẫn còn ngập rất nhiều, xe đi qua giống như thuyền rẽ nước. Mưa to như thế, trên phố ngay cả xe kéo cũng không thấy đâu, người đi đường càng ít hơn. Mộ Dung Phong tôn trọng Doãn Sở Phàn, nhất định mời ông và Tĩnh Uyển ngồi ghế sau, còn mình ngồi phía trước, trong khoang xe chật hẹp này, anh ngồi đối diện với Tĩnh Uyển, trái tim Tĩnh Uyển rối loạn đến cực điểm, cô đành quay mặt đi nhìn cảnh phố bên ngoài. Hai bên phố lướt qua giống như ngày cô đến. Thừa Châu, trước mắt chỉ có bóng tối phức tạp hỗn loạn, mơ hồ không rõ.

 

Đến nhà ga, Thẩm Gia Bình đã canh phòng  sẵn ở sân ga, Mộ Dung Phong tiễn nhọ lên tận tàu, họ đặt hai phòng đặc biệt, Tĩnh Uyển rất sợ anh nói lời gì đó, cho nên vào phòng của cha, ngồi ở đó không về phòng mình. Thẩm Gia Bình mang hoa quả điểm tâm đến, nói: “Đây là Cậu Sáu dặn dò chuẩn bị cho Doãn tiên sinh và Doãn tiểu thư dùng dọc đường”.

 

Doãn Sở Phàn luôn miệng nói: “Không dám”. Mộ Dung Phong nói: “Lão tiên sinh hà tất phải khách sáo thế, sau này có cơ hội mời tiên sinh đến Thừa Châu, để Bái Lâm hết lòng tiếp đãi”. Hai người họ nói nhưng lời khách sáo, Tĩnh Uyển ngồi trên ghế sofa,  chỉ nhìn sân ga bên ngoài cửa sổ, trên sân ga dày đặc cảnh vệ, tuy trong mưa lớn quần áo ướt đẫm vẫn đứng thẳng không động đậy, dáng vẻ quân nhân nghiêm khắc như thế khiến người ta cảm thấy kính nể. Mộ Dung Thần trước đây quân chế nghiêm khắc, đến tay Mộ Dung Phong cũng vẫn quân kỷ nghiêm minh, cho nên Thừa quân xưa nay rất có uy danh. Cô nghĩ đến câu nói đó của anh: “Anh sẽ đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trong lòng đau đớn đến kỳ lạ. Anh có hoài bão to lớn, cô biết nhất định có ngày anh sẽ làm được, lúc đó bản thân mình gặp lại anh, không biết thời thế đã như thế nào?

 

Hoặc là trải qua khói lửa chiến tranh mười năm, hai mươi năm, cô cũng chỉ có thể đứng một bên nhìn về cuộc đời của anh mà thôi.

 

Cuối cùng đến lúc tàu sắp chạy, Mộ Dung Phong nhìn cô, trong ánh mắt đó như có vạn lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, cáo từ xuống tàu. Qua cửa sổ cô nhìn thấy anh đứng trên sân ga, Thẩm Gia Bình che ô giúp anh, đằng sau anh đều là cảnh vệ, mưa như trút nước, ào ào giống như hàng ngàn sợi dây thừng quất xuống mặt đất. Tàu hơi rung rung, bắt đầu chầm chậm lăn bánh về phía trước. Anh đứng ở đó, không  động đậy, Thẩm Gia Bình thì thầm gì đó vào tai anh, anh cũng coi như không biết, chỉ ngẩng mặt nhìn cô. Cô định rời khỏi cửa sổ, nhưng không biết vì sao mất hết sức lực, không nhúc nhích được, ngay cả ánh mắt cũng không thể di chuyển, cách cửa kính và màn mưa, vốn không nhìn rõ sắc mặt anh, cô mù mờ không biết đang nghĩ gì. Một bàn tay ấm áp đặt lên vai cô, cô quay đầu lại, Doãn Sở Phàn gọi một tiếng trìu mến: “Con gái”. Tàu đang  tăng tốc, cô quay mặt lại, hình bóng anh đã tụt lại phía sau, càng ngày càng nhanh, càng ngày càng xa. Những cảnh vệ đó và anh đã thành một bóng đen mơ hồ, một lát sau tàu rẽ chuyến hướng, ngay cả sân ga cũng không nhìn thấy nữa, giữa trời đất chỉ còn lại màn mưa mênh mang.

 

Không kịp nói yêu em – Chương 13

Chương 13

Cha con họ gặp nhau đương nhiên có rất nhiều chuyện để nói. Mọi chuyện từ đầu đến giờ cũng không phải một, hai câu mà nói hết được, Tĩnh Uyển vốn rất tủi thân, nhưng sợ cha lo lắng nên chỉ kể qua loa rồi hỏi: “Cha, sao cha lại đến?”.

Doãn Sở Phàn đáp: “Tối qua cha đã đến rồi, sau khi con đi, mẹ con liền đổ bệnh, cha đành ở nhà lỡ mất mấy ngày, trên đường lại gặp giới nghiêm Thừa Châu, tối qua mới vào thành”. Tĩnh Uyển nghe nói mẹ bệnh, cảm thấy buồn phiền, áy náy hơn: “Mẹ sao rồi ạ? Có nghiêm trọng không?”. Ông Doãn Sở Phàn trầm ngâm mặt nói: “Dù sao con cũng làm chúng ta sốt ruột chết được, con còn hỏi gì nữa? Lúc cha đi, bệnh của mẹ con đã khỏi rồi, chỉ nhớ con quá mà thôi. Tối qua cha hỏi hết nhà trọ lớn nhỏ trong thành đều không tìm thấy con, con thật sự làm cha và mẹ con sợ chết khiếp mới hài lòng hả?”. Tĩnh Uyển trong lòng rầu rĩ, gọi một tiếng: “Cha…”. Ông Doãn Sở Phàn vốn rất tức giận, nhưng khi gặp con gái lại lập tức mềm lòng, huống hồ con gái đang bệnh, càng khiến ông xót xa hơn. Cho nên tuy ông sầm mặt, nhưng không nỡ quở mắng quá lời, chỉ nói: “Sau đó cha đến, gặp sư đoàn trưởng Từ mới biết con ở đây dưỡng bệnh, sao con lạ làm phiền Cậu Sáu thế chứ?”.

Ông nói đến đây liền ngẩng đầu lên nhìn Mộ Dung Phong một cái, Mộ Dung Phong lại rất khách sáo, cúi người nói: “Doãn tiên sinh đừng khách, Doãn tiểu thư là ân nhân cứu mạng của tôi, cho nên tôi mới bạo gạn giữ Doãn tiểu thư ở lại đây dưỡng bệnh”. Doãn Sở Phàn vốn ngờ vực trong lòng, lúc này thắc mắc mới được giải đáp, “ồ” một tiếng. Tĩnh Uyển nói nhiều như vậy, cảm thấy hơi mệt, cô vừa vui mừng vừa buồn bã, cứ nắm tay cha, không muốn buông ra.

Tĩnh Uyển thấy cha đến đương nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên. Cô còn trẻ, lại có bác sĩ giỏi, thuốc tốt, nên hồi phục rất nhanh. Doãn Sở Phàn ngày ngày ở cùng con gái, thấy vết thương của cô có chuyển biến tốt, trong lòng mới yên tâm. Ông cũng là thương nhân rất có tiếng ở Càn Bình, có quan hệ qua lại với không ít nhân vật trong Thừa quân. Lần này Doãn Sở Phàn đến Thừa Châu, rất nhiều bạn bè cũ muốn tiếp đãi thể hiện lòng hiếu khách, vết thương Tĩnh Uyển dần hồi phục, ông mới tranh thủ thời gian đi gặp mặt họ.

Hôm đó công việc của Mộ Dung Phong không bận bịu cho lắm, buổi trưa đã về, anh hễ về nhà là đến thăm Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển có thói quen ngủ trưa, Mộ Dung Phong vừa đi vào phòng ngoài, đúng lúc Lan Cầm đi ra, cô cười nhỏ nói: “Cậu Sáu, Doãn tiểu thư ngủ rồi”. Anh chần chừ một lát, cuối cùng vẫn đi vào trong. Rèm cửa trong phòng đều kéo kín, những quả bông nhỏ ở chân rèm khẽ đung đưa trong gió, khắp phòng tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả hơi thở yếu ớt của cô, dường như Tĩnh Uyển đang ngủ rất say, khóe môi hơi cong lên, tựa như đang cười. Anh sợ làm cô tỉnh nên đi đến trước giường, im lặng nín thở, ngắm khuôn mặt đang ngủ say ấy anh không kìm được cúi người xuống. Sau khi bị thương Tĩnh Uyển ngủ không sâu lúc anh đi vào tuy rất nhẹ nhàng, nhưng quần áo sột soạt, cô mang máng nghe thấy, lờ mờ ngửi thấy hơi thở mang mùi bạc hà thanh mát, liền biết là ai, không hiểu vì sao nhất thời cô không mở mắt ra.

Anh cúi người xuống, hơi thở ấm ấm cua cô phả vào mặt anh, trên môi cô đã ửng sắc hồng, không còn nhợt nhạt như trước, sắc hồng đó mê hồn biết bao, tựa như sự mê hoặc lớn nhất thế gian. Gần như vậy, đưa tay ra là có thể chạm tới, anh chầm chậm tiến gần hơn nữa, tim Tĩnh Uyển đập thình thịch, cô muốn mở mắt ra theo bản năng, chính vào lúc đó hơi thở anh lại xa dần, cuối cùng anh chỉ đưa tay kéo mép chăn cho cô. Trong lòng cô rối như tơ vò, cũng không biết là vui mừng, hay là trăm ngàn cam xúc không nói thành lời. Cô rất hiếm khi rối loạn như vậy, nhưng luôn cảm thấy một sự bất an mơ hồ ở nơi sâu thẳm trái tim, cô không muốn nghĩ sâu xa hơn, cứ giả vờ như mới tỉnh dậy, chầm chậm mở mắt ra.

Mộ Dung Phong thấy cô tỉnh, cảm thấy hơi áy náy: “Anh làm em tỉnh dậy rồi à?” Ánh sáng trong phòng ảm đạm, anh vẫn chưa thay quần áo, trên người vẫn là bộ quân phục, thắt lưng và cầu vai đều là sắc vàng lạnh lẽo, nhưng ánh mắt anh ấm áp như lụa. Cô lắc lắc đầu, anh cười nói: “Đã tỉnh rồi thì anh đưa em đi xem một thứ”.

Anh luôn dùng trăm phương nghìn kế để đổi lấy một nụ cười của cô, lúc này cô lại lười hoạt động, nói: “Buổi chiều xem đi”. Anh là người nói là làm, thế nên đành nhẫn nại nịnh cô: “Không xa đâu, trong căn nhà này thôi, họ mất rất nhiều công sức mới làm được, buổi chiều anh còn có việc phải ra ngoài, bây giờ anh cùng em đi xem nhé”

Hóa ra là một nhà kính trồng hoa kiểu Tây, xung quanh đều là tường kính, trần cũng bằng kính, Tĩnh Uyển nhìn từng chậu hoa lan trên giá, bất giác nín thở im lặng, lúc lâu sau mới chỉ chậu hoa trước mặt: “Là lan Thiên Ly ở đâu ra thế? Theo em biết, mười sáu tỉnh Giang Bắc không đâu có nổi một chầu hoa này”. Mộ Dung Phong nói: “Lần trước em từng nói, trong các loại hoa lan thì hoa là quân tử, khiến em yêu thích nhất, cho nên anh sai người đi khắp nơi sưu tầm”.

Cô biết hoa tuy quý hiếm, Mộ Dung Phong nắm giữ quyền hành, hoa dùng tiền mua về cũng không phải chuyện khó, cái hiếm có là một câu nói vu vơ của cô, vậy mà anh ghi nhớ trong lòng, sai người hao tâm tổn sức thực hiện. Từ trước đến nay, anh đối xử với cô đều rất nồng hậu, sau khi cô bị thương lại càng dịu dàng quan tâm hơn nữa. Người đàn ông xuất sắc như thế, suy nghĩ thấu đáo như thế, trong lòng cô bất giác hơi cảm động, rất lâu sau, cô nói: “Nhiều chủng loại quý hiếm vậy, nhà kính hoa lan này đương nhiên là độc nhất vô nhị, nhưng là loài hoa yếu ớt, khí hậu phía Bắc không hợp, chỉ sợ không sống nổi”.

Mộ Dung Phong nói: “Anh tin chỉ cần có tấm lòng thì không gì là không thể. Chỉ cần bỏ ra công sức, số hoa lan này nhất định sống được”. Con người anh vốn mang khí chất oai hùng, nhưng lúc này ánh mắt dịu dàng như nước, như có thể dìm chết người khác, cô nhìn sang chỗ khác, thẫn thờ nhìn chậu hoa lan Thiên Ly độc nhất vô nhị đó, giống như chưa từng nghe thấy lời anh nói. Mộ Dung Phong thấy cô nhìn hoa đến thất thần, cũng không nói gì, hai người đứng giữa đám hoa lan, cứ yên lặng như thế.

Chuyến này đến Thừa Châu, Doãn Sở Phàn định đưa con gái về nhà, sau lại nghe nói Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cãi nhau, ông cũng chỉ cho rằng con gái mồm mép, nhất thời nóng giận. Nhưng sau khi gặp Mộ Dung Phong, ông mới lờ mờ đoán được vàì phần; mấy người bạn cũ của ông ở Thần quân lần này lại vô cùng khách khí, giờ mới biết Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong quen biết đã lâu, quan hệ thân mật, ai ai cũng biết. Trong lòng ông rất tức giận, sáng sớm tinh dậy đã lập tức đi tìm con gái. Nơi Tĩnh Uyển ở lại một căn phòng rất lớn, mới sáng sớm mà bên ngoài đã có người hầu đứng chầu sẵn, thấy ông đến liền cung kính chào hỏi, lại có người giúp ông mở cửa, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười của Mộ Dung Phong.

Hóa ra hôm nay Mộ Dung Phong đã đến từ sớm, nói với Tĩnh Uyển: “Anh có thứ này muốn tặng em”. Khóe môi cong cong, Thẩm Gia Bình mỉm cười đi vào, trên tay cầm một chiếc lồng. Tĩnh Uyển thấy trong lồng có một con mèo lớn đang ngủ, móng vuốt đang quắp lấy thanh sắt, phát ra tiếng gừ gừ, dáng vẻ ngây thơ. Cô liền cười nói: “Con mèo to quá”.

Mộ Dung Phong vừa cười vừa đoán lấy chiếc lồng, nói: “Biết nay em nhìn thành mèo… “. Thấy cô đưa tay ra, anh vội nói: “Cẩn thận, đây là hổ đấy”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, lập tức cười: “Em chưa từng thấy con hổ nào nhỏ như vậy”. Con hổ con đó đang nhe nanh trong lồng, gừ gừ liên tục, một lúc sau lại thè lưỡi ra liếm đến mức thanh sắt của chiếc lồng đó phát ra tiếng ken két. Tĩnh Uyển không kìm được định vuốt đám lông mềm mại trắng muốt đó, tay còn chưa chạm đến, Mộ Dung Phong đã kêu “này” một tiếng, khiến cô sợ rụt tay lại, lúc ấy mới biết anh dọa mình, còn anh thì bật cười, Tĩnh Uyển huých vào khuỷu tay anh, trách: “Sao anh xấu tính thế”.

Mộ Dung Phong mỉm cười, định nói, ngẩng đầu lên thấy Doãn Sở Phàn đang đi vào, liền rất khách sáo chào: “Doãn tiên sinh”. Tĩnh Uyển cười gọi: “Cha”. Mộ Dung Phong nói với Tĩnh Uyển: “Anh còn có việc, lúc khác lại đến thăm em”. Rồi anh quay sang nói với Doãn Sở Phàn: “Doãn tiên sinh nếu có việc gì, chớ khách sáo, cứ dặn dò người làm là được”.

Sau khi anh đi, Doãn Sở Phàn ngồi ở đó, lấy tẩu thuốc ra, lại nghe y tá nói ở đây không được hút thuốc, nên chỉ ngậm trong miệng theo thói quen, không hề châm lửa. Tĩnh Uyển nhìn móng vuốt của con hổ con thò qua khe hở của chiếc lồng, cào cào hoa văn trên tấm thảm thảm trải nền kêu sột soạt. Doãn Sở Phàn nhìn con hổ con đó một lúc, gõ gõ chiếc tẩu thuốc lên bàn, Tĩnh Uyển gọi một tiếng: “Cha”. Doãn Sở Phàn thở dài nói: “Con à, đũa mốc đừng chòi mâm son”.

Tĩnh Uyển tuy rất phóng khoáng, nhưng nghe cha nói thẳng thừng thế,cuối cùng không kìm được, mặt ửng đỏ, cô cười ngượng ngập nói: “Cha nghĩ đi đâu rồi thế”. Doãn Sở Phàn nói: “Đợi vết thương của con tốt hơn một chút, chúng ta nên mau về Càn Bình, cha thấy con và Kiến Chương chỉ có chút hiểu lầm. Hai đứa đã đính hôn, nhà ta và Hứa gia giao hảo nhiều năm, có việc gì cũng có thể bàn bạc”.

Không biết vì sao, nghe thấy cha nói vậy Tĩnh Uyển cảm thấy rất tức giân, càng cảm thấy khó xử mà không thể nói rõ, cô nói: “Sao ngay cả cha cũng không tin con? Giữa con và Cậu Sáu là cùng chung hoạn nan, anh ấy đối với con cực kỳ khách sáo, con cũng không biết làm thế nào khác”. Doãn Sở Phàn ngậm tẩu thuốc, nói: “Từ nhỏ con đã thông minh, cha không tin con không có cách từ chối sự khách sáo của cậu ấy, cậu ấy cực kỳ khách sáo với con, cha thấy con lại cực kỳ không khách sáo với cậu ấy”. Tĩnh Uyển bản tính ương bướng, khóe miệng xị xuống, giận dỗi nói: “Cha, vậy cha đợi đó mà xem, dù sao con không hề có ý đó, hoặc là anh ấy hiểu lầm, con nghĩ cách để anh ấy từ bỏ ý nghĩ đó là được”.

Cô đã nói quyết liệt như thế, Doãn Sở Phàn không hỏi thêm nữa. Tĩnh Uyển quả nhiên nhất quyết tìm cơ hội, chỉ là không có thời cơ thích hợp. Hôm đó Triệu Thù Ngưng đến thăm cô, hai người nói chút chuyện thường ngày. Triệu Thù Ngưng thấy có một khẩu súng ngắn nhỏ khảm đá quý kiểu Tây đặt trước giường, mới nói: “Nghe anh Sáu nói, khẩu súng này được đặt làm từ nước ngoài, hơn nữa đặt một đôi ,rất quý giá đó”. Khẩu súng này là Mộ Dung Phong tặng Tĩnh Uyển cùng với vé tàu trước khi sự việc xảy ra, cô vốn định lấy ra định trả cho Mộ Dung Phong, lúc này nghe Triệu Thù Ngưng nói có một đôi, cảm thấy hơi bối rối, lại thấy hơi kỳ lạ, liền nói lảng: “Cậu Sáu bắn súng rất giỏi”.

Trong giây lát, mắt Triệu Thù Ngưng sáng lên, cô nói: “Kỹ thuật bắn súng của anh Sáu là do đích thân đại soái dạy, Anh Sáu từ nhỏ đã không chịu thua kém người khác, tôi nhớ lúc sáu, bảy tuổi, đại soái hỏi sau này anh ấy lớn lên muốn làm quân đoàn trưởng không, ai ngờ anh Sáu noí, lớn lên anh ấy sẽ không làm quân đoàn trưởng, đại soái hỏi vậy lớn lên anh muốn làm gì, anh Sáu vênh mặt lên đáp: “Trị quốc bình thiên hạ”. Sau này đại soái luôn vô cùng đắc ý, luôn khen anh Sáu có chí khí”.

Tĩnh Uyển thấy lời nói của cô mang theo sự khâm phục vô hạn. Triệu Thù Ngưng thấy Tĩnh Uyển chăm chú nhìn mình, đỏ mặt cúi đầu, nói: “Tôi luôn hay lắm chuyện như thế, có chút chuyện cũng lải nhải bao lâu, chỉ sợ Doãn tiểu thư nghe thấy phiền”. Tĩnh Uyển nói: “Không, tôi rất thích nghe mà”. Cô lại hỏi: “Chị Triệu sinh năm nào? Tôi đoán chị lớn hơn tôi”. Triệu Thù Ngưng nói: “Tôi nhỏ hơn anh Sáu một năm bốn tháng”. Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Em và Cậu Sáu kết nghĩa anh em, vậy em gọi một tiếng chị, chị đừng chê em”. Triệu Thù Ngưng “à” một tiếng: “Hóa ra em và anh Sáu là kết nghĩa anh em, chị còn tưởng….” nói đến đây Thù Ngưng cười cười. Tĩnh Uyển sao mà không hiểu, chỉ là giả vờ ngây ngô: “Em trẻ tuổi hồ đồ to gan, dù sao trèo cao có người anh là Cậu Sáu, chị và Cậu Sáu là anh em họ, vậy chị cũng  chính là chị của em rồi”.

Triệu Thù Ngưng nghe cô gọi một câu chị, hai câu chị, giọng điệu ngọt ngào, ý tứ khóe léo, làm sao mà không thích. Hai người ngày càng thân thiết, sau này Triệu Thù Ngưng thường hay đến chơi với cô cho đỡ buồn.

Hôm đó sư đoàn trưởng Từ mời Doãn Sở Phàn ăn cơm, ngày nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, Mộ Dung Phong luôn đến thăm cô một lát, có điều tối anh thường họp rất muộn, quay về cô đã ngủ, hôm nay tan họp sớm hơn, Tĩnh Uyển vẫn chưa đi nghỉ, anh cười nói: “Hôm nay cuối cùng đã gặp được em rồi, hôm qua hôm kia lúc anh đến, em đều ngủ rồi”.

Tĩnh Uyển gọi Lan Cầm: “Đi lấy đồ ăn đêm đến cho Cậu Sáu”. Lan Cầm nghe lời bưng lên một bát mì nhỏ, Mộ Dung Phong thấy mì thịt gà xé phay, nước dùng dầu hạt cải thơm ngon, liền nói: “Làm phiền quá, cảm ơn nhiều”. Lan Cầm tươi cười đáp: “Doãn tiểu thư đã bảo nhà bếp chuẩn bị từ trước, nhưng không dám nấu quá sớm, sợ lúc Cậu Sáu đến mì nát hết”. Mộ Dung Phong cầm đũa, Lan Cầm lặng lẽ lui ra, Mộ Dung Phong ăn rất ngon, chậm rãi ăn từng chút một, anh hỏi: “Sao em biết anh thích ăn món này?”.

Tĩnh Uyển cười đáp: “Em hỏi chị Thù Ngưng, chị Thù Ngưng thật chu đáo, anh thích ăn gì, thích uống gì, thích cái gì, không thích cái gì, chị Thù Ngưng đều nhớ rõ”. Vẻ mặt Mộ Dung Phong hơi thay đổi, bất giác dừng đũa, Tĩnh Uyển sợ làm hỏng chuyện, không dám nói nữa, chỉ cười hỏi: “Sao anh không ăn nữa?”.

Mộ Dung Phong cười một tiếng: “Sao em không nói nữa?”. Tĩnh Uyển thấy anh cười, nhưng trong mắt lại ánh lên sự lạnh lẽo, lòng sợ hãi mỉm cười gọi một tiếng: “Đại ca”. Cô chưa nói hết Mộ Dung Phong đã vứt đũa đi, đôi đũa đó vốn gắn với nhau bằng sợi dây bạc nhỏ, chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng sợi dây đã đứt, một chiếc đã bay ra ngoài, một chiếc khác rơi xuống đất, nước dùng trong bát cũng sánh ra, ánh mắt như muốn giết người, chằm chằm nhìn cô: “Doãn Tĩnh Uyển, em đừng ép anh quá đáng, hôm nay anh nói thẳng ra, anh không làm đại ca gì của em hết, anh thích em, viên đạn đó suýt nữa lấy mạng của em, cũng suýt lấy mạng anh, lúc đó anh đã hạ quyết tâm, chỉ cần em sống em sẽ phải là của anh, cho dù em giận anh, hận anh, anh cũng không hề hối tiếc”.

Tĩnh Uyển không ngờ anh nói ra những lời đó, chỉ thấy trong mắt anh như có ngọn lửa đang cháy rừng rực, cô ngồi trên mép giường, anh đưa tay ra nắm lấy vai cô, cô hoảng hốt sợ hãi, đôi môi ngang ngược mà nóng bỏng đã áp lên môi cô, cô hơi vũng vẫy, động vào vết thương ở trước ngực, cô đau đớn, không kìm được “á” một tiếng, anh lại nhân cơ hội mà “công thành chiếm đất”, hút lấy sức ngọt ngào trong miệng cô. Cô sợ đến cực điểm, đưa tay đẩy anh ra, lại bị siết chặt hơn, hơi thở anh cuồng bạo chiếm lấy hơi thở cô, cô yếu ớt bám lấy khuỷu tay anh, móng tay cào vào trán anh, anh bị đau đớn mới chịu buông tay ra.

Anh thở dốc và gấp, cô vốn là người to gan, nhưng không biết vì sao cũng hoảng loạn đến cực điểm, chỉ dám thở nhè nhẹ. Anh lại gọi nhỏ: “Tĩnh Uyển”. Cô hơi ngửa mặt lên, ánh mắt rừng rực như lửa, giọng nói lại đè nén mà khào khào: “Tĩnh Uyển, anh mong em có thể ở lại bên cạnh anh. E rằng Thừa – Dĩnh sắp đánh nhau, anh không thể để em đi, càng không thể xa cách em bởi khói lửa chiến tranh”.

Tĩnh Uyển cũng không biết mình đang nghĩ gì, bất an mà hoảng sợ, cô rất ít khi sợ hãi, cho nên cảm giác này khiến cô run rẩy, trên môi vẫn còn hơi thở của anh, mãnh liệt mà nóng bỏng như thế, giống như đốt cháy nơi sâu thẳm nhất trái tim cô, cô không dám nghĩ gì, chỉ hoảng hốt hỏi một câu chẳng liên quan: “Sao lại đánh nhau?”.

Trong mắt anh có một ngọn lửa âm u, chiếu ra ánh sáng rỡ ràng: “Trận đánh này là khó tránh khỏi, Thừa – Dĩnh đối đầu với nhau mấy năm, tuyệt đối không phải kế sách lâu dài. Mấy năm nay anh sớm đã dự tính, chỉ có thống nhất mười sáu tỉnh Giang Bắc, sau đó mới quyết chiến một trận với Khương Song Hỷ, Lý Đồng Niên ở phương Nam. Thiên hạ chia năm xẻ bảy, cũng nên quy về một mối.

Tĩnh Uyển ngơ ngác nhìn anh: “Phía Bắc có người Nga dòm ngó chằm chằm như hổ đói, mấy năm nay Dĩnh quân và Thừa quân ngang tài ngang sức, nếu anh đồng thời dùng binh ở cả hai phía Nam Bắc, làm sao có thể có nửa phần thắng lợi? Anh điên thật rồi”.

Mộ Dung Phong nhìn cô một lúc lâu, bỗng nhiên hôn nhẹ lên trán cô, Tĩnh Uyển nhất thời sững sờ, nhưng không hề né tránh. Anh mỉm cười nhìn cô, nói: “Anh điên rồi sao? Thế thì anh mới thích em đến phát điên như thế này. Chinh chiến gian nan là việc của đàn ông, vốn không nên nói với em, nhưng anh muốn cho cả thiên hạ thấy, anh muốn cho em biết, anh có hoài bão như thế nào. Tĩnh Uyển, anh muốn cho em hạnh phúc mà phụ nữ trên thế gian này đều phải ngưỡng mộ, anh muốn tặng cả thiên hạ cho em”.

Không kịp nói yêu em – Chương 9

Chương 9

 

Mới chín giờ sáng nhưng vì phải tổ chức tiệc sinh nhật, trong ngoài Đào phủ đã cực kỳ náo nhiệt. Bên ngoài cửa mời đội nhạc của Nga diễn tấu đón khách, tam tiểu thư đương nhiên là trưởng ban đón tiếp, bên ngoài nhờ một vị tổng quản trong phủ đốc quân điều hành. Đến mười giờ, cả có một hàng dài ô tô đỗ trên con phố ngoài cổng lớn Đào phủ, mấy người bán hoa quả bánh rán, len giữa dòng xe bán hàng cho lái xe, nửa con đường chỉ nghe thấy tiếng còi xe, tiếng cười nói, tiếng pháo đốt, sự náo nhiệt đó khiến người qua đường không thể không dừng chân quan sát. Tổng quản đem theo cảnh vệ Đảo phủ, sắp xếp đỗ xe, đón khách, tiếp đãi… bận túi bụi mới có thể khiến con đường tắc nghẽn ngựa xe đó được thông suốt.

Tĩnh Uyển thay quần áo rồi ra ngoài tiếp khách. Đám phụ nữ người nhà trong Thừa quân đều lần lượt đến. Thường phu nhân nhìn thấy Tĩnh Uyển tấm tắc khen: “Doãn tiểu thư hôm nay thật lộng lẫy, ôi chao, sợi dây chuyền này…” cứ thế chặc lưỡi khen mãi. Mấy vị phu nhân, thiếu phu nhân, tiểu thư, thích nhất là đồ trang sức, đều xúm lấy Tĩnh Uyển như muôn sao chầu nguyệt, sợi dây chuyền đó quấn thành ba vòng, mỗi vòng khảm một viên kiem cương én vàng, xung quanh khảm thêm đá quý to bằng đầu ngón tay, tuy không có ánh đèn, nhưng nó vẫn lấp lánh phát sáng trên cổ. Từ phu nhân nói: “Doãn tiểu thư quá đẹp, chỉ có sợi dây chuyền thế này mới xứng là thêu hoa trên gấm”. Tĩnh Uyển mim cười hỏi: “Sao không thấy Từ thống chế ạ? Hôm nay mời ông chủ Lô Ngọc Song đến biểu diễn tại nhà, Từ thống chế thích nghe kịch vậy, không thể nào bỏ lỡ được”. Từ phu nhân đáp: “Ông ấy nói hôm nay Cậu Sáu gọi đi họp”. Tĩnh Uyển vờ như giờ mới nhớ ra nói: “Đúng thế, sáng nay Cậu Sáu có nói với tôi, sợ trưa sẽ đến muộn một chút”. Từ phu nhân nghe cô nói thuận miệng như thế, liền nhoẻn miệng cười với Mộ Dung tam tiểu thư, ý là hai người này tình cảm tốt như vậy, hóa ra sáng sớm đã gặp nhau rồi.

 

Sau mười một giờ, khách đã đến gần hết, Tĩnh Uyển đi lại giữa phòng khách, nghe tiếng cười đùa náo nhiệt mà trái tim cứ đập thình thịch thình thịch. Tam tiểu thư không hề biết chuyện, bước tới nói với cô: “Còn hai mươi phút nữa bắt đầu bữa tiệc, nếu Cậu Sáu không đến kịp thì đợi thêm chút nữa đi”. Tĩnh Uyển nghe nói chỉ còn hai mươi phút nữa là đến mười hai giờ, mà trong phòng khách huyên náo, bốn bề đều là tiếng cười nói ầm ĩ, tiếng nhạc ở phòng trước ồn ào như thế, tuy cô cố gắng trấn tĩnh, nhưng cũng không kìm chế được nói: “Em đi trang điểm lại chút, ở đây nóng quá”. Tam tiểu thư cẩn thận nhìn giúp cô, nói: “Mau đi đi, thêm chút phấn nữa mới được, hôm nay là ngày tốt như vậy”.

 

Tĩnh Uyển liền đi về phía căn nhà nhỏ mình ở, trước lầu còn treo vô số cờ màu và ruy băng, dùng lá vạn niên thanh két thành cổng hình vòm, bên trên cài đầy hoa lụa sặc sỡ, rất bắt mắt đẹp đẽ, phần lớn người làm đều đến phía trước tiếp đãi khách khứa, thế nên ở đây rất yên tĩnh. Lúc cô đi vào trong cũng chỉ có Lan Cầm đi theo, vừa mới chuẩn bị lên lầu, bỗng có người gọi: “Doãn tiểu thư”. Tĩnh Uyển nhận ra đó Hà Tự An, tâm phúc của Mộ Dung Phong, vội vàng hỏi: “Cậu Sáu về rồi à?”

 

Hà Tự An nói nhỏ: “Mời Doãn tiểu thư qua bên này nói chuyện”. Tĩnh Uyển liền dặn dò Lan Cầm: “Em lên lầu lấy hộp trang điểm của chị xuống đây giúp chị”. Còn mình đi theo Hà Tự An, xuyên qua hành lang đến cửa phòng khách nhỏ phía sau. Toàn bộ rèm cửa được kéo xuống, trong phòng tối tăm cũng không được bật đèn, hai người đứng ở đó, trong ánh sáng âm u, dáng vẻ một người quá đỗi quen thuộc. Đầu cô ù đi, nước mắt cũng trào ra, chỉ leo lên theo bản năng, người đó ôm lấy cô: “Tĩnh Uyển”. Cô mắt ngân ngấn lệ, ngẩng mặt lên, mỉm cười: “Kiến Chương, em thật sự không dám tin là anh”. Hứa Kiên Chương ôm chặt lấy cô: “Anh cũng như nằm mơ… Tĩnh Uyển, đúng là em rồi”.

 

Hà Tự An ho nhẹ một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư, Cậu Sáu đã dặn dò, nếu trước mười hai giờ cậu ấy không gọi điện thoại, thì thả Hứa tiên sinh ra, đưa đến chỗ Doãn tiểu thư”. Tiếp theo, Hà Tự An lại đưa một tấm vé, chính là tấm vé cùng chuyến tàu với cô. Trong lòng Tĩnh Uyển chấn động, tấm vé đó tuy chỉ là một tờ giấy nhẹ tênh, nhưng cầm trong tay nó nặng tựa ngàn cân. Nghĩ đến sáng nay anh ở căn phòng này, tạm biệt với cô, đáy mắt ánh chiếu hình bóng của cô, tình sâu như biển, còn ngày kết nghĩa đó, anh ngẩng mặt lên uống rượu, ánh mắt lóe lên sự đau khổ như sắp vuột mất cô, giống như thuốc độc ngấm vào xương thịt. Nhưng anh đã giúp cô tính toán từng thứ một, ngay cả việc cuối cùng, anh cũng đã sắp xếp ổn thỏa. Trong lòng cô biết bao suy nghĩ ngổn ngang, bản thân cũng không biết mình đang nghĩ gì nữa.

 

Hứa Kiến Chương thấy cô mất tập trung, sự ngờ vực dấy lên, không thể không hỏi: “Tĩnh Uyển, sao họ lại thả anh ra, em chạy đường của ai thế, có quyền lớn vậy?”. Rồi lại hỏi: “Đây là đâu?”. Câu hỏi của anh, cô không thể giữ giải thích một câu nào, càng không biết giải thích thế nào, chỉ trả lời đơn giản: “Đợi chúng ta rời khỏi đây, em sẽ nói rõ sự tình hình với anh”. Cô quay mặt lại hỏi Hà Tự An: “Cậu Sáu đâu? Vẫn ở soái phủ sao?”.

Hà Tự An lắc lắc đầu, nói: “Tôi chỉ phụ trách việc này, việc khác tôi đều không biết?”. Kiến Chương liền hỏi xen vào: “Cậu Sáu? Mộ Dung thiếu gia? Em hỏi Cậu Sáu làm gì?”. Tĩnh Uyển nói: “Em nợ Cậu Sáu một ân tình. Chuyện không phải một, hai câu mà nói rõ được”. Kiến Chương “ồ” một tiếng, giống như đã hiểu một chút, nói: “Hóa ra là anh ta”. Anh ở trong tù từng nghe lính canh nói: “Cậu thật có phúc, bên trên có người che chắn cho cậu như thế”. Hôm nay bỗng nhiên được tha, vốn đã đầy ngờ vực, nay lại thấy Tĩnh Uyển ấp a ấp úng nên càng nghi ngờ hơn. Đúng lúc đó, chiếc đồng hồ cao gần bằng người trong căn phòng kêu reng reng. Tĩnh Uyển nghe thấy âm thanh đó, gần như giật bắn mình, quay mặt lại, thấy kim phút kim giây đã trùng nhau, chỉ thất thần sững sờ.

 

Hứa Kiến Chương gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”, cô dường như không nghe thấy, một lát sau, mới tự nói một mình: “Mười hai giờ rồi”. Hứa Kiến Chương nhận lấy vé tàu trên tay cô, nhìn nhìn, kinh ngạc: “Đây là vé tàu nửa tiếng sau, chúng ta phải đi nhanh thôi”. Tĩnh Uyển lại “ồ” một tiếng, chỉ nghe thấy tiếng nhạc, tiếng người nói vẳng xa phía trước, không lâu sau, nghe thấy tiếng bước chân đi về phía này, càng lúc càng gần, cô cảm thấy trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhưng tiếng bước chân đó nhanh nhẹ, hơn nữa không phải là tiếng giày da. Người đó đi thẳng vào phòng khách, cô nhận ra là bác Châu ở nhà trên, bác Châu nói: “Phu nhân sai tôi đến nói với Doãn tiểu thư, đến giờ mở tiệc rồi, nhưng Cậu Sáu vẫn chưa về, chắc là họp muộn, cho nên muốn kéo dài thời gian thêm mười lăm phút”.

 

Tĩnh Uyển chột dạ, không nói được lời nào, chỉ gật gật đầu. Thấy bác Châu dò xét Hứa Kiến Chương, cô vội vàng nói: “Đây là anh họ tôi, nói với phu nhân, tôi lập tức ra ngay”. Hứa Kiến Chương nghe thấy cô nói mình là anh họ, càng nghi ngờ hơn, khóe miệng hơi động đậy, cuối cùng cố gắng kìm chế:  Đợi bác Châu vừa đi, Kiến Chương lập tức hỏi: “Đây rốt cuộc là đâu, em ở đây làm gì?” Tĩnh Uyển nói: “Đây là Đào phủ, vì chuyện của anh em tạm thời sống ở đây?”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh giờ đã không sao rồi, vậy chúng ta đi nói với chủ nhà một tiếng, chúng ta cáo từ thôi, làm phiền người ta như vậy”. Tĩnh Uyển nghiến nhẹ răng, nói: “Anh đi trước, em đón chuyến tàu sau”.

 

Hứa Kiến Chương không thể ngờ rằng cô nói ra câu ấy, hỏi: “Tại sao?” Tĩnh Uyển đáp: “Bây giờ em vẫn chưa thể nói, ngày mai anh sẽ hiểu. Cậu Sáu thả anh ra, em nợ anh ấy một ân tình, em phải trực tiếp cảm ơn anh ấy”. Hứa Kiến Chương cuối cùng không chịu được: “Cậu Sáu thế nọ, Cậu Sáu thế kia, em quen Cậu Sáu như thế nào, sao anh ta lại chịu thả anh ra?” Tĩnh Uyển cảm nhận được sự nghi ngờ trong lời nói của anh, trong lòng phẫn nộ không tả, hỏi lại: “Chẳng lẽ anh không tin em?”.

 

Hứa Kiến Chương trả lời: “Tất nhiên là anh tin em, nhưng em cũng phải giải thích rõ ràng cho anh”. Tĩnh Uyển tức giận nói: “Bây giờ anh muốn em giải thích thế nào, anh ấy thả anh ra, anh không những biết ơn, ngược lại còn nghi ngờ như thế”. Hà Tự An đứng bên cạnh khuyên nhỏ: “Doãn tiểu thư, vừa đi vừa nói thì hơn, Cậu Sáu đã dặn dò tôi, nhất định phải đưa Doãn tiểu thư lên tàu”. Tĩnh Uyển ngẩng mặt lên nói: “Cậu Sáu đã đối xử với tôi như vậy, tôi có thể nghênh ngang ra đi sao? Nhờ Hà tiên sinh đưa Hứa Kiến Chương đến bến tàu, tôi đáp chuyến tàu sau”.

 

Tuy Hứa Kiến Chương tính khí ôn hòa, lúc này cũng không để ý nữa, chỉ lạnh lùng nói: “Em không đi, anh cũng không đi”. Tĩnh Uyển giậm chân một cái, nói: “Anh không tin em thì thôi”. Cô quay sang nói với Hà Tự An: “Phiền anh đưa tôi đi gặp Cậu Sáu”. Hà Tự An quá đỗi bất ngờ, Hứa Kiến Chương hỏi: “Em đi gặp anh ta làm gì?”. Tĩnh Uyển lạnh nhạt đáp: “Người ta cứu mạng anh, em phải đi cảm ơn người ta”. Hứa Kiến Chương không nhịn được nữa: “Tại sao người ta cứu anh, sao em không nói rõ cho anh biết?”.

 

Ánh mắt Tĩnh Uyển nhìn thẳng vào anh, lúc lâu sau mới tươi cười: “Đúng thế, vì sao người ta chịu cứu anh? Trong lòng anh đã đoán được rồi, tại sao không nói ra?”. Hứa Kiến Chương trong lòng hối hận, nhưng nhìn thấy Hà Tự An đến nhà tù thả mình ra, trưởng tù còn cung kính với anh ta như vậy, rõ ràng anh ta là người có địa vị rất cao. Nhưng Hà tiên sinh này còn cực kỳ cung kính với Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển là con gái, một người như vậy trong Thừa quân mà cũng cung kính nghe lời cô, đương nhiên khiến người ta ngạc nhiên, mà trong cuộc hội thoại của họ cũng nhiều lần nhắc đến Mộ Dung Phong, có thể thấy quan hệ giữa cô và Mộ Dung Phong không hề đơn giản. Sự ngờ vực trong anh càng lúc càng lớn, cuồn cuộn dâng trào, cả cơ thể như muốn nổ tung, tâm trạng buồn bã đến cực điểm. Còn Tĩnh Uyển lại có vẻ không màng đến bản thân, ngược lại nói với Hà Tự An: “Tôi muốn gặp Cậu Sáu”.

 

Hà Tự An do dự nói: “Doãn tiểu thư, không được đâu”. Tĩnh Uyển lòng rối như tơ vò, hàng ngàn suy nghĩ không biết nên giải quyết từ đâu. Chỉ một mực nghĩ, mình và anh có tình kết nghĩa, qua lại đến nay anh luôn đối xử lịch thiệp, trước sự ép buộc của tình thế vẫn thay mình sắp xếp chu đáo, bây giờ anh đang gặp nguy, mình tuyệt đối không thể bỏ đi. Cô quyết đoán trong khoảnh khắc, nói với Hà Tự An: “Việc đã thế này, Tĩnh Uyển đã quyết định rồi, mong Hà tiên sinh giúp cho”.

 

Bình thường Hà Tự An thấy cô dịu dàng yếu đuối, lúc này nghe cô nói một câu như thế, trong lòng thầm khen, cảm thấy cô gái này trọng tình nghĩa, chẳng quản sống chết, nói: “Cậu Sáu có lệnh, tôi không thể làm trái. Nhưng nếu Doãn tiểu thư không muốn đến bến tàu, tôi cũng không thể ép buộc”. Tĩnh Uyển hơi mỉm cười, nói với Hứa Kiến Chương: “Anh ở đây đợi em, em đi một lát rồi về”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh đi cùng em”. Tĩnh Uyển biết tình hình chưa rõ ràng, trước mắt chưa biết chắc, nhìn đồng hồ đã là mười hai giờ hai mươi phút, tam tiểu thư vẫn chưa sai người đến mời mình dự tiệc, vậy Mộ Dung Phong nhất định chưa về. Cô nhất thời không thể giải thích rõ cho Hứa Kiến Chương, càng không muốn chần chừ thêm nữa, chỉ nói: “Anh không đi được, em sẽ về ngay”. Hứa Kiên Chương vẫn muốn nói tiếp, Tĩnh Uyển đã nói: “Hà tiên sinh, phiền anh ở lại đây với Hứa tiên sinh”. Hà Tự An vâng mọt tiếng, Hứa Kiến Chương cực kỳ phẫn nộ, nắm lấy cánh tay cô: “Tĩnh Uyển, tại sao?”.

 

Tĩnh Uyển nói: “Em không phụ anh, nếu anh tin em, anh sẽ biết em không phụ anh”. Ánh mắt cô cháy bỏng nhìn anh chăm chút: “Kiến Chương, em không hề phụ anh”. Hứa Kiến Chương thấy mắt cô như hai đốm lửa nhỏ cố chấp cháy như thế, trong lòng biết rõ cô là người tuyệt đối không thấy chú ý. Và trong lòng anh cũng không muốn nghĩ đến việc kinh khủng như thế, anh đành thuyết phục bản thân: Tĩnh Uyển làm vậy nhất định là có lý do của cô ấy. Cuối cùng anh chầm chậm buông tay ra, nói: “Được, anh ở đây đợi em”.

 

Tĩnh Uyển đi ra, tam tiểu thư đang lo lắng, nói nhỏ với cô: “Cậu Sáu nói nhất định sẽ đến, sao giờ này vẫn chưa đến?” Tĩnh Uyển nói: “Em muốn đến soái phủ, đích thân mời Cậu Sáu”. Tam tiểu thư cười nói: “Cũng được”, rồi dăn xe đưa cô đến soái phủ. Tĩnh Uyển ngồi trên xe, trong lòng giống như có hàng ngàn chiếc trống đang vang lên điện cuồng. Đi từ Đào phủ đến soái phủ chỉ mất mấy phút, từ xa xa cô nhìn thấy soái phủ canh phòng cẩn mật như thường, tâm trạng thấp thỏm, cố gắng trấn tĩnh.

 

Cô xuống xe ở phía trước, người ở cửa đương nhiên biết mặt cô, cười nói: “Doãn tiểu thư đến rồi? Cậu Sáu vẫn đang họp ở phía sau”. Cô không biết tình hình như thế nào, chỉ ầm ừ một tiếng, men theo hành lang đi đến căn nhà đá xanh đó. Vừa đúng lúc Thẩm Gia Bình đi từ trên lầu xuống, vừa thấy cô đã tỏ vui mừng, lập tức nói: “Chào Doãn tiểu thư”. Tĩnh Uyển “ừ” một tiếng hỏi: “Cậu Sáu đâu?”. Thẩm Gia Bình đáp: “Vừa mới họp xong, sư đoàn trưởng Thường đang kéo Cậu Sáu lại làm phiền, còn cả Từ thống chế, ba người nói đến tận bây giờ?”. Vừa nói vừa ra hiệu bằng mắt cho Tĩnh Uyển, tim Tĩnh Uyển đập thình thịch, xuyên qua phòng khách, đi đến cửa phía sau, cận vệ mở cửa giúp cô, cô đi vào trong cười nói: “Cậu Sáu, anh đồng ý với người ta, sao lại chẳng để ý chút nào thế?”

 

Mộ Dung Phong đang bị Thường Đức Quý giữ lại không buông, nếu muốn mượn cớ bỏ đi, là một người rất tinh ý, e rằng Từ Trị Bình sẽ sinh nghi. Lúc này bỗng nghe thấy giọng cô, trong lòng anh không biết là kinh ngạc hay vui mừng, xen lẫn sự lo âu. Thấy cô vừa đi vừa xị mặt ra, anh hỏi: “Em đến làm gì? Anh đang có việc quan trọng”.

 

Tĩnh Uyển cười nói: “Đồ ăn đều đã đưa lên hết rồi, kịch cũng đang hát đến đoạn hay, khách cũng đã đến đủ, Cậu Sáu đồng ý tổ chức sinh nhật cho em, mà bây giờ lại vẫn ở đây”. Cô lại cười nói với Thường Đức quý: “Sư đoàn trưởng Thường, trưa hôm nay thay tôi uống với Cậu Sáu một ly, lần nào Cậu Sáu cũng khen tửu lượng của sư đoàn trưởng đó”. Cô giả vờ hơi tức giận, ánh mắt lay động như nước, liếc Mộ Dung Phong một cái: “Đi thôi, không đi là em giận thật đấy”. Không phân trần gì, cô khoác tay Mộ Dung Phong kéo thẳng ra ngoài. Sau cùng cô còn quay đầu lại cười tươi với Từ Trị Bình, nói: “Từ thống chế cũng mau đến đi, bên đó đang đợi mở tiệc rồi”.

 Từ Trị Bình thấy khuôn mặt đầy vẻ hết cách của Mộ Dung Phong, khi anh bị kéo ra đến cửa, ông ta chợt nảy ra một ý nghĩ liền gọi: “Cậu Sáu, tôi còn lời muốn nói!”. Tĩnh Uyển trong lòng căng thẳng, cướp lời: “Thống chế đến tiệc rượu, muốn nói bao nhiêu chẳng được? Mau đến dự tiệc đi”. Từ Trị Bình ngờ vực, nhưng nhìn dáng vẻ dịu dàng yếu đuối của cô, ông ta nghĩ nếu có lừa gạt thì cũng không thể do một người phụ nữ yếu đuối gây nên, trong giây lát đó, chỉ thấy Thường Quý Đức đã rao bước ra ngoài, Từ Trị Bình chần chừ một lát rồi cũng đi theo.

 

Mộ Dung Phong vừa ra khỏi phòng khách, liền lấy hộp thuốc từ trong túi, tạch một tiếng mở ra, nói: “Người đâu, châm lửa”. Người mai phục hai bên hành lang, nghe thấy câu này xông hết ra, ập đến hai người Từ, Thường. Thường Quý Đức chưa kịp hiểu gì đã bị đè xuống đất, Từ Trị Bình thấy tình thế không ổn, kêu lớn một tiếng, rút ra một khẩu súng từ sau lưng, lao về phía Mộ Dung Phong. Thẩm Gia Bình lập tức nhảy ra, ôm chặt lấy hắn, hai người lăn trên đất, tất cả cảnh vệ đều vội vã xông lên.

 

Quy tắc xưa nay, tất cả đều thuộc cấp Thừa quân vào soái phủ đều không được đem theo súng, hai vị Từ, Thường cũng đã bỏ lại súng ở ngoài cửa, không ngờ Từ Trị Bình vẫn giấu một khẩu súng trên người. Trước tình hình hỗn loạn, Mộ Dung Phong rất bình tĩnh bảo vệ Tĩnh Uyển lùi về phía sau, chỉ thấy ba, bốn người đã giữ chặt Từ Trị Bình cướp lấy súng của ông ta, anh đang thở phào nhẹ nhõm, bỗng nghe thấy Thường Đức Quý gầm lên một tiến, hất hết cảnh vệ ra, ông ta vốn là mãnh tướng có tiếng trong Thừa quân, cú nhảy đó cảnh vệ sao giữ nỗi? Nói thì chậm làm thì nhanh, ông ta đưa tay lên, hóa ra đã giấu sẵn súng, chỉ nghe liên tiếp ba tiếng “pằng pằng pằng” vang lên. Một cận vệ xông lên giữ lấy, cơ thể Mộ Dung Phong bị đập mạnh, Tĩnh Uyển kêu lên một tiếng thất thanh, máu nóng đã rớt trên tay. Mấy cẩn vệ đã giữ chặt Thường Quý Đức, dùng dây thừng buộc hai chân hai tay ông ta lại, Thường Quý Đức vẫn còn chửi mắng: “Mộ Dung Phong, tên khốn khiếp! Ông mày trăm ngàn khổ sở giúp cha mày giành được một nửa giang sơn, cái tên vô dụng như mày lại gài bẫy ông, có gan thì đấu riêng với ông đây! Hôm nay không đánh chết mày, ông chết không nhắm mắt…”. Miệng ông ta đột nhiên bị nhét hai quả hạnh đạo, không chửi mắng được nữa.

 

Hai người đó đã bị buộc chặt như chiếc bánh chưng, Thẩm Gia Bình sợ đến hồn bay phách lạc, chỉ chạy lại xem máu trên tay Mộ Dung Phong: “Cậu Sáu, bị thương ở đâu?”. Mộ Dung Phong lại nắm lấy gấu áo anh: “ Mau đi gọi bác sĩ, mau đi gọi bác sĩ?”. Thẩm Gia Bình giờ mới thấy Tĩnh Uyển mặt trắng bệch như giấy ở trong lòng anh, trên gấu áo máu ào ào chảy xuống, không ngờ là cô bị thương. Cận vệ đã leo đến gọi điện thoại trước đó, Mộ Dung Phong ôm chặt lấy Tĩnh Uyển, dáng vẻ tựa như con thú bị sập bẫy, trong mắt vằn lên tia nhìn đáng sợ. Anh cướp lấy khẩu súng trên tay Thẩm Gia Bình, Thẩm Gia Bình chỉ kịp kêu một tiếng: “Cậu Sáu!”. Họng súng đã nhằm vào đầu Thường Quý Đức, Thẩm Gia Bình hốt hoảng, chỉ nghe thấy hai tiếng “pằng pằng” liên tiếp, đầu Thường Quý Đức đã bị bắn nát. Mộ Dung Phong chuyển họng súng, Từ Trị Bình xoay người, nhưng nào có nhúc nhích được, Mộ Dung Phong đã bóp cò, một phát tiếp một phát, đến lúc bắn hết sạch đạn, anh mới vứt khẩu súng xuống đất, bế Tĩnh Uyển lên giống như vừa tỉnh dậy từ giấc mơ, thấy cô thoi thóp, hơi thở đã yếu đến không nghe thấy, chân bước vội, anh điên cuồng ôm cô loạng choạng chạy về phía sau.

 

 

 

Không kịp nói yêu em – Chương 11

Chương 11

 

Căn phòng Đào phủ bố trí cho khách đương nhiên rất thoải mái tiện nghi, nhưng Hứa Kiến Chương không hề buồn ngủ. Buổi chiều Đào phủ bỗng nhiên trở nên im ắng, anh tuy lờ mờ đoán được là xảy ra chuyện,  nhưng đến tận lúc chiều tà mới nghe nói Mộ Dung Phong bị ám sát. Đây là chuyện chấn động biết bao, tuy điện báo nhắc đi nhắc lại nói rõ Mộ Dung Phong không hề bị thương, tất cả tướng lĩnh cao cấp vẫn chạy đến phủ họp, nữ giới trong Đào phủ hoảng loạn một hồi rồi cũng dần dần ra về hết. Đến tận đêm cả Đào phủ tĩnh mịch, so với sự náo nhiệt lúc ban ngày giống như hai thế giới hoàn toàn khác biệt.

 

Hứa Kiến Chương nghe nói xảy ra chuyện lớn như vậy, Tĩnh Uyển lại đang đi đến soái phủ, không biết cô an nguy ra sao, trong lòng nóng như lửa đốt, sốt ruột đến mức không biết thế nào. Có cảnh vệ ở bên cạnh, anh không tiện đi lung tung dò hỏi tin tức, người làm trong Đào phủ hỏi ai cũng không biết. Đêm nay anh làm sao ngủ nổi chứ? Kiến Chương nằm xuống giường, đang lúc sốt ruột đến cực điểm, cảnh vệ bên ngoài gõ cửa gọi: “Hứa tiên sinh, Hứa tiên sinh”.

 

Anh còn tưởng là Tĩnh Uyển về, trong lòng vui mừng, vội vàng đi mở cửa. Cảnh vệ đó nói: “Cậu Sáu sai người đến Hứa tiên sinh đi một chuyến”. Anh bất ngờ: “Cậu Sáu?”. Anh ngạc nhiên vô cùng, đương lúc quan trọng, sao Mộ Dung Phong lại muốn gặp kẻ chẳng liên quan là anh? Nhưng cảnh vệ đó liên tục giục giã, anh đành theo anh ta đến soái phủ.

 

Trời đã sắp sáng, người đi họp chợ sáng đã bắt đầu ồn ào, người gánh tào phớ rao bán đi xuyên qua con ngõ nhỏ, quang gánh rung rinh và tiếng rao bán kéo dài: “Tào phớ đây…”. Từ “đây” kéo thật dài, khiến trái tim người ta cũng đột nhiên nảy lên theo, trong lòng càng thấp thỏm hơn.

 

Chiếc xe của họ gào thét đi trên con phố, nó lao đi rất nhanh, không bao lâu sau đã đi vào hành dinh đốc quân canh gác nghiêm ngặt. Cảnh vệ dẫn anh xuống xe, đi thẳng vào tòa nhà gạch xanh, bên trong phòng khách đèn điện sáng trưng, có mười cận vệ mặc quân phục đứng gác, lưng đeo súng ngắn kiểu mới nhất, đứng thẳng tắp, xung quanh im lặng như tờ, yên ắng đến mức anh cảm thấy có thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập thình thịch trong lồng ngực.

 

Cảnh vệ dẫn anh lên lầu, sau khi đi hết cầu thang rẽ trái, đến một căn phòng vô cùng sang trọng, Hứa Kiến Chương cũng không còn tâm trạng mà ngắm kiến trúc xung quanh, chỉ nghe cảnh vệ nói: “Mời Hứa tiên sinh đợi ở đây một lát” rồi lui ra ngoài.

 

Trong lòng Hứa Kiến Chương thấp thỏm không yên, chỉ cảm thấy sự đợi chờ này như đã kéo dài cả thế kỷ, bên ngoài trời đã sáng hẳn, nghe thấy tiếng chim hót trên cành cây, trong lòng anh có vô số nghi hoặc, lúc thì nghĩ đến Tĩnh Uyển, lúc thì lại nghĩ sao Mộ Dung Phong muốn gặp mình, suy nghĩ rối tung không biết phải gỡ từ đâu. Rất lâu sua, cuố cùng nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu lại nhìn, người dẫn đầu tuổi khoảng trên dưới ba mươu, trong lòng anh vẫn đang dắn đó, đối phương đã hỏi: “Hứa tiên sinh phải không?”. Anh gật đầu, người đó nói: “Tôi là Thẩm Gia Binh, đội trưởng đội cảnh vệ của Cậu Sáu, chuyện tối qua chắc Hừa tiên sinh cũng có nghe nói đến, mong Hứa tiên sinh đừng thấy lạ”. Nói xong Thẩm Gia Bình ngẩng mặt lên, hai cảnh vệ đằng sau liền lên trước cẩn thận lục soát người Kiến Chương một lượt, không phát hiện thấy vũ khí, mới gật đầu ra hiệu cho Thẩm Gia Bình.

 

Thẩm Gia Bình nói: “Mời Hứa tiên sinh theo tôi” và quay người đi ra ngoài, Hứa Kiên Chương theo sau, cuối cùng không kìm được hỏi: “Doãn tiểu thư bạn tôi còn ở trong phủ không?”. Thẩm Gia Bình không hề dừng bước, cũng không quay mặt lại, chỉ nói: “Hứa tiên sinh, Doãn tiểu thư muốn gặp anh, cô ấy bị thương rất nặng”. Hứa Kiến Chương nghe thấy câu này, giống như sét đánh ngang tai, bất giác đứng sững, định thần lại mới phát hiện đã tụt lại phía sau mấy bước, liền vội vàng đuổi theo Thẩm Gia Bình.

 

Lần này Thẩm Gia Bình dẫn anh vào một căn phòng kiểu Tây, Hứa Kiến Chương chỉ thấy căn phòng nguy nga lộng lẫy, trang hoàng tráng lệ, bên ngoài bên trong đều có người hầu khoanh tay đứng chầu, bốn bề tĩnh mịch, tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ treo tường cũng có thể nghe thấy rõ mồn một. Thẩm Gia Bình đích thân mở cửa, bên trong chỉ bật một chiếc đèn ngủ nho nhỏ, ánh sáng mờ mờ, ấm áp, lúc này Hứa Kiến Chương bỗng cảm thấy sợ hãi, sự ám ảnh trong lòng càng ngày càng rõ, càng ngày càng lan rộng. Thảm dưới chân dày ba, bốn phân, giẫm lên không phát ra tiếng động, tựa như bước trên gấm lụa, mềm mại không có chút sức lực, anh chỉ thấy bước chân khó khăn, trái tim cũng giống như treo giữa không trung. Anh nhìn thấy một chiếc giường kiểu Tây lớn và sang trong, đầu giường khắc hoa mạ vàng, một chiếc màn kiểu Tây buông xuống, chiếc màn đó màu trắng, gần như trong suốt, bay nhẹ như mây, buông xuống vô số tua màu vàng, lả lướt bao vây lấy chiếc giường. Chiếc chăn bông trên giường đang ôm lấy một thân hình nhỏ bé. Trái tim anh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh thất thanh gọi: “Tĩnh Uyển”.

 

Sắc mặt cô nhợt nhạt, trắng bệch như giấy, anh sững sờ nhìn cô thở yếu ớt. Y tá bên cạnh vội dùng tay ra hiệu cho anh, tim anh như có dao cứa, hồn xiêu phách lạc, có người đưa cho anh một chiếc ghế, anh cũng không buồn ngồi xuống. Ánh mắt anh chăm chú nhìn vào mặt cô. Anh hỏi y tá: “Vết thương của cô ấy thế nào?” . Y tá đáp: “Rất nghiêm trọng”. Anh hỏi: “Làm sao lại bị thương?” . Y tá cứ úp úp mở mở không đáp, Thẩm Gia Bình cười một tiếng, nói: “Hứa tiên sinh, có một số chuyện anh đừng hỏi quá nhiều thì hơn”. Anh kinh ngạc, trong lòng lo sợ, cả một bụng nghi vấn đành nén xuống.

 

Anh cũng không biết đã quá bao lâu, chiếc rèm nhung treo trên cửa sổ nặng nề rủ xuống, chút ánh sáng nhàn nhạt bên ngoài lách vào, lờ mờ như ánh hoàng hôn. Còn Tĩnh Uyển nằm ở đó, tựa một đứa trẻ đang ngủ, vô trí vô giác. Hứa Kiến Chương ngồi đó, cơ thể dần dần tê đi, nhưng trong đầu trống rỗng. Căn phòng ngủ này rất rộng, trên chiếc giá bằng gỗ đàn hương ở phía đông treo một thanh đao cong rất dài, trên chiếc bao da của đao có khảm đá quý, phía dưới khâu tua màu ngà, rất đẹp, rõ ràng là một thanh đao nổi tiếng. Trên giá còn đặt hai thanh bảo kiếm, dài ngắn khác nhau. Trên chiếc tủ thấp cạnh đó có đặt một vài bao xì gà, thuốc lá. Ánh mắt đờ đẫn của anh dừng lại trên tủ quần áo trước giường, bên trên có treo một bộ quân phục của nam giới, một chiếc thắt lưng da vứt tùy ý dưới giá quần áo, trên thắt lưng còn có một bao súng da để trống. Hứa Kiến Chương nhìn thấy bộ quần áo đó tuy là quân phục bình thường, nhưng trên vai rủ xuống tua màu vàng, người mặc bộ quân phục này, không ai khác ngoài Mộ Dung Phong.

 

Người hầu đến mời anh đi cơm, dạ dày anh như nhét đầy đá, nặng trình trịch, đâu có muốn ăn, nên anh chỉ lắc đầu. Trong phòng vô cùng yên ắng, chỉ có tiếng Tĩnh Uyển thỉnh thoảng rên nhẹ, y tá đi đi lại lại, đo nhiệt độ, đo huyết áp, tiêm, lau mồ hôi cho cô. Anh ngồi ở đó, chỉ mong Tĩnh Uyển mau tỉnh lại, nhưng trong tận đáy tim đang dấy lên một sự bất an, dường như đang sợ hãi một thứ gì đó. Người hầu lại đến mời anh ăn tối, ngày hôm nay không ngờ lại trôi đi nhanh như thế, nhưng cũng trôi đi chậm như thế.

 

Có tiếng bước chân nhẹ vang lên bên ngoài, chỉ nghe thấy một giọng phụ nữ dịu dàng: “Doãn tiểu thư sao rồi?”. Một bà vú già bên ngoài đáp: “Vẫn chưa tỉnh ạ”. Tiếp theo cửa mở ra, anh quay lại nhìn, chỉ thấy một quý phu nhận sang trọng , khoảng ba mươi tuổi. Lan Cầm vội nói với quý phu nhân đó: “Đây là Hứa thiếu gia, anh họ của Doãn tiểu thư”. Rồi cô lại quay sang nói với anh: “Đây là tứ phu nhân của chúng tôi”.

 

Anh từng nghe nói đến đại danh của vị tứ phu nhân này, biết bà là vị phu nhân được sủng ái nhất là Mộ Dung Thần còn sống, Mộ Dung Phong chưa kết hôn, nghe nói mọi việc trong Mộ Dung phủ đều do bà làm chủ, do đó vội đứng dậy rất khách sáo, gọi một tiếng  “Tứ phu nhân”. Tứ phu nhân vốn theo Mộ Dung Thần đến rất nhiều nơi, tuy là phụ nữ kiểu cũ, nhưng thoải mái phóng khoáng, đưa tay ra bắt tay Hứa Kiến Chương, nói: “ Hứa thiếu gia, hân hạnh”. Bà lại nói: “Tĩnh Uyển xảy ra việc như vậy, thật khiến người ta đau lòng”.

 

Trong lòng Hứa Kiến Chương đang lo âu, nghe tứ phu nhân nói thế, càng đau lòng, buồn phiền hơn. Tứ phu nhân an ủi anh: “Ở hiền gặp lành, biểu thiếu gia (*) cũng đừng quá lo lắng”; rồi lại hỏi: “Biểu thiếu gia vẫn chưa ăn cơm phải không?”. Dứt lời, bà gọi một người hầu vào sai bảo: “Giờ mấy người ngày càng không có quy tắc, khách ở đây, sao không mời đến phía sau ăn cơm?”.

 

(*) Biểu thiếu gia nghĩa là anh, em họ đằng ngoại, ý coi như Doãn Tĩnh Uyển sẽ lấy Mộ Dung Phong, nên Hứa Kiến Chương thuộc về họ đằng ngoại của Mộ Dung Gia (BTV)

 

Hứa Kiến Chương vội nói: “Họ đã mời tôi mấy lần rồi, tôi không muốn ăn nên mới không đi. Hơn nữa đã rất làm phiền quý phủ rồi”. Tứ phu nhân mỉm cười, nói: “Biểu thiếu gia đâu phải người ngoài, sao lại khách sáo thế? Cậu Sáu nhà chúng tôi hai ngày nay bận quá, cho nên không tranh thủ được thời gian, mong biểu thiếu gia đừng lấy làm lạ. Biểu thiếu gia cứ coi đây như nhà mình đi, có việc gì chỉ cần dăn dò bọn họ là được”.

 

Bà một mực gọi biểu thiếu gia, nỗi nghi hoặc trong lòng Hứa Kiến Chương như bọt xà phòng trào lên đến đỉnh điểm, động nhẹ là có thể vỡ tung. Tứ phu nhân lại nói: “Cơm thì vẫn phải ăn, nếu Tĩnh Uyển tỉnh dậy, chắc chắn sẽ không muốn thấy biểu thiếu gia đói bụng”. Bà mới đi mời lại, Hứa Kiến Chương không thể không nể mặt, đành đứng dậy đi ăn cơm.

 

Anh ăn không ngon, nhưng người làm trong Mộ Dung phủ hầu hạ vẫn rất ân cần, sau bữa cơm là tráng miệng kiểu Tây, vừa có đồ ngọt, vừa có cà phê, anh ăn không nổi, nhấp hai ngụm cà phê liền lập tức quay về thăm Tĩnh Uyển. Anh thấy xung quanh đã sáng lên, đi về căn nhà đó, đèn trên hành lang đều đã bật sáng trưng, Thẩm Gia Bình đứng ngoài hành lang, thấy anh thì hơi sững lại, Hứa Kiến Chương cũng không để ý, Thẩm Gia Bình liền lên trước gõ cửa nói: “Cậu Sáu, Hứa thiếu gia quay lại rồi”. Lúc này cửa mới mở.

 

Mộ Dung Phong đang nói chuyện với một vị bác sĩ người nước ngoài trước cửa sổ nghe vậy mới quay đầu lại. Hứa Kiến Chương tuy đến Thừa Châu nhiều lần nhưng chưa từng gặp Mộ Dung Phong, lúc này bỗng nhiên gặp mặt, trong lòng kinh ngạc, chỉ thấy so với trên ảnh, anh ta sắc mặt hơi tối, đường nét tuấn tú, biểu cảm ung dung tự tại, quả thật là thiếu niên lão luyện sớm.

 

Anh đành chào một tiếng: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong gật đầu hờ hững, lại quay mặt đi dùng tiếng Nga nói chuyện với vị bác sĩ nước ngoài, vị bác sĩ đó cũng dùng tiếng Nga trả lời, một lát sau bác sĩ đó lại cùng Mộ Dung Phong đến trước giường, thảo luận nhỏ với anh ta. Hứa Kiến Chương đoán họ đang nói về vết thương của Tĩnh Uyển, có điều một câu anh cũng không hiểu, chẳng khác nào người thừa.

 

Ngày hôm sau Tĩnh Uyển vẫn chưa tỉnh, cứ ngủ mê man. Tứ phu nhân ngày nào cũng đến hai lần, xem vết thương của Tĩnh Uyển rồi lại an ủi Hứa Kiên Chương vài câu. Tối hôm đó sau khi đến, bà còn tiện tay lấy một chiếc hộp trên tay nha hoàn, đưa cho Hứa Kiến Chương nói: “Hai ngày nay có mấy vị phu nhân đến thăm, nhưng bác sĩ đã dặn Doãn tiểu thư cần yên tĩnh, cho nên tôi đều từ chối hết, mấy đồ này là người ta tặng Doãn tiểu thư, anh nhận giúp cô ấy đi”.

 

Sau khi Tứ phu nhân đi rồi, Hứa Kiên Chương mở ra xem, không ngờ là một danh mục quà tặng, đa phần là những vị thuốc quý hiếm, toàn là nhung hươu, hổ cốt, mật gấu, sâm Cao Ly trăm năm, còn có người tặng đồ ngọc sư tử, có người tặng đồ cổ trang sức, muôn hình muôn vẻ, không thiếu thứ gì. Lạc khoản phía dưới, đều đề tên nữ gia quyến của các nhân vật quan trọng trong Thừa quân. Anh nắm tờ danh mục ấy giống như nắm một cục than đang cháy, sự đau đớn từ lòng bàn tay chảy thẳng vào tận tim.

 

Khi Tĩnh Uyển dần dần tỉnh lại, đã là ba ngày sau. Vết thương đau đớn, nhưng người đã tỉnh táo, cô vừa mở mắt ra, Lan Cầm đã vui mừng hét lên: “Tiểu thư tỉnh rồi, tiểu thư tỉnh rồi”. Bác sĩ y tá đều tập trung lại, ánh mắt cô lướt qua mọi người, tìm kiếm mà không thấy Hứa Kiến Chương đâu. Đã có người đi báo cáo với Mộ Dung Phong, anh vốn họp thâu đếm, lúc này đang ngủ, vừa nghe thông báo, anh không kịp thay quần áo, khoác vội chiếc áo khoác rồi đến. Thấy cô tỉnh lại, anh không kỉm được nở nụ cười, buột miệng nói: “Cuối cùng em đã tỉnh rồi”. Lan Cầm đứng bên cạnh cũng cười: “Giờ thì tốt rồi, cuối cùng tiểu thư đã tỉnh. Cậu Sáu vô cùng lo lắng, cứ một lát lại đến thăm tiểu thư”. Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh tiều tụy, anh mắt tràn ngập sự thương yêu, trong lòng cảm kích hỏi: “Cậu Sáu…”.

 

Mộ Dung Phong hiểu ý, nói: “Sự việc cơ bản đã ổn định lại rồi”. Anh khẽ nắm tay cô nói: “Tĩnh Uyển, may mà em không sao, nếu không thì cả đời này anh cũng không sống vui vẻ được”. Cô gượng cười hỏi: “Hai ngày nay em mơ mơ hồ hồ, hình như cảm thấy Kiến Chương ở đây, sao giờ không nhìn thấy anh ấy?”

 

Mộ Dung Phong nói: “Anh sai người đi mời Hứa thiếu gia đến cho em, quả thật anh ta luôn ở đây. Nhưng vừa đúng trưa nay sư đoàn trưởng Từ mời ăn cơm, cho nên anh ta ra ngoài rồi”. Tĩnh Uyển nghe vậy, cảm thấy hơi thất vọng.

 

Hứa Kiến Chương mấy ngày nay không có tâm trạng ăn uống, hôm nay cũng vẫn ăn không ngon. Sư đoàn trưởng Từ đãi khách ở nhà, đương nhiên là một bàn sơn hào hải vị, cao lương mỹ vị. Sư đoàn trưởng Từ đó có quan hệ thân thiết với Hứa Kiến Chương, nữ giới trong nha cũng không hề tránh đi. Từ phu nhân vốn hay nói hay cười, vừa gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương vừa cười nói: “Hứa thiếu gia tuy chịu khổ mấy ngày trong nhà lao, nhưng nguy hiểm đã qua, hôm nay làm bữa cơm gia đình, coi như an ủi thiếu gia”.

 

Hứa Kiến Chương ăn không nổi, sư đoàn trưởng Từ hỏi: “Vết thương của Doãn tiểu thư hông biết hiện giờ còn nghiêm trọng không?”. Hứa Kiến Chương than một tiếng, nói: “Mấy vị bác sĩ người nước ngoài thay phiên nhau trong nom nhưng không khởi sắc mấy”. Từ phu nhân cười nói: “Doãn tiểu thư phúc trí song toàn, nhất định có thể chuyện dữ hóa lành, hơn nữa có lệnh của Cậu Sáu, nói chữa không khỏi cho Doãn tiểu thư sẽ hỏi tội mấy bác sĩ đó, họ dám không cố hết sức sao?”. Sư đoàn trưởng Từ  nghe bà ta nói không đâu vào đâu, vội ngắt lời: “Uống rượu, uống rượu” rồi đích thân cầm chai rượu rót cho Hứa Kiến Chương một ly.

 

Hứa Kiến Chương chầm chậm một ly rượu Tây bỏng rát đó, những lời muốn nói cuối cùng không nhịn được nữa: “Sư đoàn trưởng Từ, chúng ta là bạn bè, hôm nay ông nói thật với tôi một câu, Cậu Sáu đối với Tĩnh Uyển… với Tĩnh Uyển…”. Kiến Chương nhắc hai lần, nhưng vế sau vẫn không thể nói ra được.

 

 Sư đoàn trưởng Từ nói với Từ phu nhân: “Bà bảo người đem bình rượu cao lương lần trước người ta tặng đến đây”. Từ phu nhân vâng lời rồi đi, Hứa Kiến Chương thấy ông đuổi khéo Từ phu nhân, trong lòng càng bất an hơn, cứ đờ đẫn nhìn ông. Sư đoàn trưởng Từ lại rót cho anh một ly đầy, tiếp đó than một tiếng thật dài, nói: “Chắc cậu cũng thấy rồi, Cậu Sáu rất ái mộ Doãn tiểu thư, tôi khuyên cậu một câu, đại trương phu nên lo sự nghiệp, thức thời mới là tuấn kiệt”.

 

Sự lo lắng mấy ngày nay của Hứa Kiến Chương cuối cũng đã được chứng thực, trái tim rơi xuống thẳng, cứ rơi cứ rơi, giống như không đáy không bờ, toát ra sự lạnh lẽo từ tận xương cốt. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Những lời này tôi vốn không nên nói, nói ra cũng nên vả vào miệng, nhưng tôi và cậu giao hảo nhiều năm, tôi không nói cho cậu biết cũng thấy khó chịu. Doãn tiểu thư quả thật là hào kiệt trong nữ giới, kỳ nữ hiếm thấy, chỉ riêng chuyện gan dạ một mình đến Thừa Châu cứu cậu, tôi đã muốn giơ ngón cái ra khen một câu “Giỏi”. Cậu Sáu thích cô ấy cũng là lẽ thường tình. Tôi là người ngoài, nói cậu đừng giận, theo tôi thấy, Doãn tiểu thư đối với Cậu Sáu cũng chưa chắc là không có ý gì đâu”.

 

Hứa Kiến Chương buột miệng nói: “Tĩnh Uyển không thể nào”.

 

Sư đoàn trưởng Từ lại than một tiếng: “Có hay không tôi không biết, nhưng trên dưới Thừa quân, ai ai cũng biết cô ấy là bạn gái của Cậu Sáu, cô ấy không tránh dị nghĩ, luôn có cử chỉ thân mật với Cậu Sáu. Doãn tiểu thư ở trong phủ Tam tiểu thư, chỉ cách đại soái phủ có một con phố”. Giọng nói ông ta ép xuống rất nhỏ: “Có lần vì chuyện quân quan trọng, tôi đi tìm Cậu Sáu suốt đêm, Thẩm Gia Bình ấp a ấp úng nói không rõ Cậu Sáu đi đâu, bảo tôi đợi ở phòng khách hơn nửa tiếng, mãi mới thấy Cậu Sáu từ phía sau về. Sau này tôi mời khách ở Tiểu Dương Xuân, mươn rượu dò hỏi Thẩm Gia Bình chuyện đó, Trương Nghĩa Giả thư ký của Cậu Sáu cũng uống khá nhiều rồi, mặt mày hớn hở giả vờ văn vẻ với tôi, nói cái gì mà “Đương quan bất báo xâm thần khách, tân đắc gia nhân tự Mạc Sầu” (*). Tôi là người thô lỗ nghe không hiểu, đảm thư ký đó đều cười ầm ầm lên, Thẩm Gia Bình bấy giờ mới nói, Doãn tiểu thư không giống người khác, mấy người nói linh tinh ở đây, Cậu Sáu mà biết được, lại không bạt tai mấy người ấy chứ”.

 

(*) Trích trong bài thơi Đường Bình thiếu hầu của nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường. Hai câu thơ này, đại ý nói, người giữ cửa không dám thông báo với Đường Bình thiếu hầu là có người khách đến vào sáng sớm, vì thiếu hầu mới có được một mỹ nhân tên là Mạc Sầu, câu nói hàm ý châm biếm thiếu hầu đắm chìm trong nữ sắc, lơ là chính sự quốc gia.

 

 Trong lòng Hứa Kiến Chương rối như tơ vò, nghĩ đến những manh mối mấy ngày ngày vừa rồi, tim như bị dao cứa, nắm tay thật chặt, lúc lâu sau rít qua kẽ răng: “Tĩnh Uyển không phải người như vậy, tôi tin cô ấy không thế”. 

 

Sư đoàn trưởng Từ “ôi” một tiếng nói: “ Tôi thấy Doãn tiểu thư cũng không phải là người tham vinh hoa phú quý, chỉ là Cậu Sáu tuổi trẻ anh hùng, không kể đến địa vị thì cũng là một nhân tài, phàm là phụ nữ, làm gì có ai không xem trọng cậu ấy? Hai người họ bên cạnh nhau lâu như vậy, cũng sẽ nảy sinh tình cảm”.

 

Hứa Kiến Chương trong tim rối bời, chầm chậm uống rượu. Sư đoàn trưởng Từ lại nói: “Lão đệ, tôi coi cậu như anh em ruột mới nói nhiều như thế. Cho dù cậu không nghĩ cho bản thân mình thì cũng phải lo cho gia đình, nếu gây chuyện với người đó, sau này việc kinh doanh của cậu sẽ làm thế nào? Tính khí ngài ấy chắc cậu cũng ít nhiều nghe nói đến, thật sự muốn lật mặt, đừng nói việc kinh doanh sau này, chỉ sợ khắp chín tỉnh phía Bắc ngay cả đất dung thân cậu cũng không có. Cậu còn mẹ già em nhỏ, cậu xảy ra chuyện họ còn có thể hy vọng vào ai? Bên nào nặng bên nào nhẹ, cậu tự cân nhắc đi”.

Không kịp nói yêu em – Chương 10

Chương 10

Hứa Kiến Chương ngồi ở căn phòng đó một lát, trong lòng ngổn ngang bao suy nghĩ, tâm trạng bất an, nghĩ hết điều này đến điều kia, luôn nghĩ rằng, đừng nghĩ nữa cho xong, nhưng đầu óc lại như trúng tà, những ngờ vực đó cứ xoay vòng không thôi. Tiếng nhạc của đội nhạc đang chơi, tiếng chiêng trống trên sân khấu, tiếng cười ồn ã ở phía trước, láng máng truyền đến càng khiến anh lo lắng thêm. Anh ngồi xuống không được mấy phút, lại đứng dậy đi mấy bước, lẩm bẩm một mình: “Phủ này đang tổ chức chuyện vui à, náo nhiệt thật”.

Hà Tự An cười cười, không trả lời. Hứa Kiến Chương đi lại mấy lượt, lại ngồi xuống ghế sofa, chỉ nghe tiếng đồng hồ tích tắc tích tắc. Thật ra trong lòng Hà Tự An còn sốt ruột hơn cả Hứa Kiến Chương, trơ mắt nhìn đồng hồ chỉ mười hai giờ rưỡi, nghe thấy tiếng bước chân vội vã đi đến từ phía sau, anh biết ngay đó không phải là người của Đào phủ, chắc là người của soái phủ vào từ cổng phụ, vì không biết tình hình thế nào, trong lòng khó tránh khỏi thấp thỏm không yên.

Hứa Kiến Chương nghe thấy tiếng bước chân thì cũng đứng dậy, anh đi lại Thừa Châu nhiều lần, vừa thấy phục trang liền biết là cận vệ của Mộ Dung Phong. Trong lòng anh nghi ngờ không yên, chỉ thấy người đó đi thẳng đến nói thầm vài câu với Hà Tự An. Hà Tự An nhìn Hứa Kiến Chương một cái, cười nói với anh: “Hứa tiên sinh cứ ngồi đây đợi, Cậu Sáu có chút việc phái tôi đi làm, tôi đi một lát rồi về”. Hứa Kiến Chương nói: “Hà tiên sinh cứ tự nhiên”. Hà Tự An hình như hơi sốt ruột, cũng không khách sáo với anh.

Hà Tự An quay về soái phủ, chỉ thấy một chiếc xe đi nhanh vào trong, đến tận trước lầu mới dừng lại. Hà Tự An nhận ra đó là xe của bác sĩ Millet, vị bác sĩ người Đức này vốn được mệnh danh là bàn tay thánh của ngoại khoa, bác sĩ nổi tiếng nhất ở bệnh viện Giáo hội Thừa Châu. Anh vừa nhìn thấy bác sĩ Millet, trong lòng không kìm được hốt hoảng, vội vã bước nhanh đi vào cùng bác sĩ Millet. Thẩm Gia Bình đang sốt ruột đi lại ở phòng khách dưới lầu, vừa thấy Millet, như gặp được cứu tinh, nói ngay: “Cậu Sáu ở trên lầu”. Anh đích thân đi trước dẫn đường, đưa Millet lên lầu. Trên hàng lang lầu trên, quả thật là ba bước một cảnh vệ, năm bước một lính canh, cảnh vệ cận vệ đứng san sát. Men theo hành lang rẽ trái là một căn phòng rộng lớn, họ xuyên qua căn phòng đi thẳng vào trong.

Trong phòng đã có bác sĩ Spencer người Anh, ông vốn là bác sĩ gia đình của Mộ Dung gia, y thuật cũng rất có tiếng, ông đang nói nhỏ gì đó với y tá, thấy Millet đi vào, hai vị bác sĩ vội vã bắt tay, bắt đầu dùng tiếng Đức trao đổi. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong ngồi yên không động đậy trên chiếc giường, y tá đang rửa vết máu trên tay anh, vội vàng đi lại. Hà Tự An thấy vết thương đó chỉ là bị một viên đạn sướt qua, vết thương rất dài, nhưng rất nông, không hề vào xương, giờ mới thở phào nhẹ nhỏm. Hà Tư An đang định cất tiếng nhưng nghe thấy Mộ Dung Phong quát hai tiếng gọn lỏn: “Tránh ra!”. Hà Tự An vội vàng tránh sang một bên, quay đầu lại mới thấy chiếc giường lớn, hai y tá đang bận cầm máu cho Tĩnh Uyển, băng gạc được thay liên tục, cô đắp chiếc chăn nỉ lấm tấm vết máu, khuôn mặt tái nhợt, không chút sắc máu. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong nhìn thẳng vào khuôn mặt nhợt nhạt của Tĩnh Uyển, trong lòng không hiểu sao bắt đầu lo lắng.

Hai bác sĩ trao đổi vài câu, nhất trí bệnh nhân không thể di chuyển, tiến hành phẫu thuật ngay tức khắc. Họ lập tức chuẩn bị, Mộ Dung Phong giờ mới ra phòng khách, đích thân bác sĩ Miller ra giải thích với anh: “Tình hình của Doãn tiêu thư không lạc quan lắm, viên đạn nó găm rất sâu, e rằng đã tổn thương đến phổi, không dễ lấy ra”. Thẩm Gia Bình thấy Mộ Dung Phong rất lâu không nói gì, mới gọi một tiếng “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong trầm ngâm hồi lâu, sau cùng mới chậm rãi gật đầu với bác sĩ.

Hà Tự An làm xong những thủ tục liên quan, lúc quay lại phòng khách không thấy ai, cuộc phẫu thuật đang tiến hành ở bên trong. Hà Tự An đang định rời xa, bỗng thấy Thẩm Gia Bình đi vào từ ban công, liền hỏi: “Cậu Sáu đâu?”. Thẩm Gia Bình suỵt miệng, Hà Tự An giờ mới thấy Mộ Dung Phong hút thuốc một mình ở ban công. Trên ban công có đặt sẵn ghế mây, đầu mẩu thuốc lá vương vãi trước ghế, Mộ Dung Phong yên lặng ngồi đó, hút từng điếu từng điếu. Khói thuốc trắng nhạt tỏa ra xung quanh, phả vào mặt, khiến người ta hơi sặc. Bóng cây hòe xanh non trước lầu, từng tia nắng lọt qua kẽ lá, Mộ Dung Phong ngồi ở đó, nhìn ánh sáng loang lổ trên đám cây. Hà Tự An đi đến gọi một tiếng: “Cậu Sáu”, Mộ Dung Phong thấy thế, giống như sực tỉnh, “ồ” lên một tiếng, hỏi: “Làm xong hết chứ?”. Hà Tự An nói: “Nội dung điện báo đã viết xong rồi, Cậu Sáu có muốn xem qua không?” Mộ Dung Phong nói: “Cậu đọc đi”.

Hà Tự An liền lấy bản thảo ra đọc cho anh nghe: “Mộ Dung Phong nhậm chức đến nay, đối với đồng sự, trợ lý của người đi trước luôn đối xử chân thành, tiếp thu ý kiến của họ, đặc biệt là với hai người là thống chế tỉnh Vọng Châu – Từ Trị Bình và sư đoàn trưởng đóng quân tại đường sắt Thừa Dĩnh –Thường Đức Quý, thời gian làm việc với họ lâu nhất, cũng tin tưởng họ nhất. Nhưng hai tên Từ, Thường thao túng lộng quyền, khiến tất cả chính sự bị đình trệ, mọi việc không thể tiến hành. Tội trạng đã rõ, phải bị trừng trị đích đáng. Nhiều lần tai họa chiến tranh đều do hai kẻ này xúi bẩy mà thành. Âm mưu kế hiểm của chúng người ngoài chưa hề biết…”.

Điện báo vốn do phụ tá được cho là nhân tài xuất chúng cẩn thận chọn lọc từ ngữ, viết rất khéo léo hoa mỹ, vừa kể vừa giải thích, kèm theo sự thương xót đau đớn vô hạn. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong không tập trung, do đó vội vàng đọc hết rồi hỏi: “Cậu Sáu, có gửi bản thảo này điện báo toàn quốc không?”. Mộ Dung Phong giờ mới cầm lấy bản thảo xem một lượt, liền hỏi: “Phía Bắc có tin tức gì không?”. Hà Tự An đáp: “Vẫn chưa có, nhưng hai sư đoàn của chúng ta đã bố trí phòng thủ từ Triết Bình đến Vọng Thành, người Nga dọc tuyến đường sắt tuy nhìn chằm chằm như hổ đói, nhưng lại bị cầm chân, cho rằng hai quân Từ, Thường không dám hành động thiếu suy nghĩ”. Mộ Dung Phong hừ một tiếng, nói: “Trước mắt giữ quân của họ lại, lấy hai lạng địch ngàn cân, đợi khi nào đủ mạnh , xem tôi giải quyết đám người Nga đó thế nào”.

Hà Tự An nhận thấy anh muốn đánh nhau với người Nga, nên không lập tức trả lời. Mộ Dung Phong nhìn bóng cây đó một lát, lại nói: “Phía Bắc có tin thì báo với tôi”.

Trong Đào phủ đang náo nhiệt, Tam tiểu thư cùng nghe kịch với Từ, Thường phu nhân, vai Thiết Kính công chúa của Lô Ngọc Song đang hát khúc Tọa Cung. Từ phu nhân vốn là người rất thích kịch, đang nghe say mê, Thường phu nhân hình như chợt nhớ ra: “Sao không thấy Doãn tiểu thư?”. Tam tiểu thư nói: “Cô ấy nói là đi thay quần áo”. Vừa quay lại thấy khách nữ giới lần lượt đứng lên, hóa ra là tứ phu nhân Hàn thị đến.

Tứ phu nhân mặt mày rạng rỡ, chưa nói đã cười: “Tôi đến muộn rồi”. Bà lại nói với tam tiểu thư: “Tôi tưởng đã bắt đầu tiệc rồi chứ?”. Từ phu nhân nói: “Tứ phu nhân vẫn chưa đến, làm sao có thể mở tiệc?”. Tứ phu nhân liền cười nói: “Tôi đã đến rồi, vậy thì bắt đầu đi”. Từ phu nhân cười đáp: “Còn cả nhân vật chính, lúc này không biết đi đâu rồi, bỏ lại mấy người chúng ta, cô ấy thì mất tích”. Tứ phu nhân phì một tiếng: “Tôi đi từ nhà ra, thấy cô ấy đi đến chỗ chúng ta. Theo tôi, chúng ta vừa ăn vừa đợi, cũng không phải thất lễ”.

Tam tiểu thư chần chừ nói: “Vẫn nên đợi hai người họ thì hơn, Tĩnh Uyển nói đi giục Cậu Sáu”. Từ phu nhân lại mỉm cười, nói: “Chẳng lẽ chỉ có họ được bỏ lại một phòng đầy khách khứa, còn chúng ta không bỏ lại họ được sao? Hôm nay chúng ta cức mặc cho họ đói đi”. Tam tiểu thư vốn không phải là người ngốc, chợt hiểu ra, cười nói: “Vậy chúng ta không đợi nữa”. Hai vị Từ, Thường phu nhân chưa phát hiện được ý tứ sâu xa, cùng cười rất tươi, vậy nên tam tiểu thư dặn dò quản gia bắt đầu khai tiệc.

Hứa Kiến Chương ở trong gian phòng khách đó, đang lúc vô cùng sốt ruột, lại thấy bác Châu đi vào, nói: “Phu nhân chúng tôi nghe nói thiếu gia là anh họ của Doãn tiểu thư, nên rất hoan nghênh, nhà trên đã chuẩn bị mở tiệc rồi, mời thiếu gia dự tiệc”. Hứa Kiến Chương nhìn cảnh vệ ở lại cùng mình một cái, hỏi: “Trong phủ nhộn nhịp như vậy, đang tổ chức chuyện vui gì thế?” Bác Châu liền cười, nói: “Thiếu gia, là tổ chức sinh nhật cho Doãn tiểu thư”. Hứa Kiến Chương liền đờ đẫn, hỏi lại một lần nữa: “Tổ chức sinh nhật cho Doãn tiểu thư?”. Bác Châu cười nói: “Phu nhân chúng tôi nói, thiếu gia là người nhà của Doãn tiểu thư, vậy cũng giống như người một nhà, mong thiếu gia đừng khách sáo”. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Hứa Kiến Chương, anh buột miệng hỏi: “Đây là Đào phủ – chẳng lẽ là phủ của Đào tư lệnh?” – Bác Châu đáp: “ Đúng thế”. Hứa Kiến Chương nghe bà ta nói cái gì người một nhà, giống như là mắc xương trong họng, trong lòng khó chịu vô cùng, nghĩ một lát lạii hỏi: “Doãn tiểu thư về chưa?”. Bác Châu cười đáp: “Doãn tiểu thư một lát nữa sẽ quay lại”.

Hứa Kiến Chương lại hỏi: “Vậy Doãn lão gia đâu, ở nhà trên phải không?”, khiến bác Châu hơi sững lại: “Doãn tiểu thư ở đây một mình, thiếu gia hỏi Doãn lão gia nào?”. Trong lòng Hứa Kiến Chương như rối như tơ vò, một lúc lâu sau, mới lắc đầu nói: “Thay tôi cảm ơn phu nhân nhà bác, tôi không tiện đi, mong Đào phu nhân thông cảm”.

Bác Châu vâng lời rồi rời đi, một lát sau lại dẫn theo người hầu xách một chiếc hộp đến, vẫn nói rất khách sáo: “Phu nhân chúng tôi nói, thiếu gia đã không muốn đến thì thôi, nên bảo nhà bếp làm mấy món đưa đến, thiếu gia ăn tạm một chút”. Người hầu đó mở nắp hộp cơm, bên trong là tôm non xào măng bao tử, cá hấp, mầm đậu Hà Lan xào, ngoài ra có một bát canh vịt ướp hoa đào nóng hổi. Hứa Kiến Chương làm gì có tâm trạng ăn cơm, người hầu đó xới cho anh một bát cơm to, anh nói với cảnh vệ ở lại cùng mình: “Cậu ăn trước đi”. Quân pháp của Mộ Dung Phong rất nghiêm ngặt, cảnh vệ đó nói: “Hứa tiên sinh cứ tự nhiên” và vẫn đứng thẳng ở bên cạnh. Hứa Kiến Chương miễn cưỡng nhận lấy bát cơm và hai miếng rồi lại buông bát. Chỉ nghe thấy tiếng ồn ào cười nói ở phía trước, xen lẫn tiếng đàn sáo vô cùng náo nhiệt, sự phồn hoa như gấm ấy, tuy cách xa nhiều tầng sân vườn, nhưng vẫn có thể thấy được từ xa.

Rất lâu sau, phòng bếp mới sai hai người hầu đến thu dọn bát đĩa, Hứa Kiến Chương vốn đã có tâm sự, vô tình đá vào dưới cửa sổ, lại nghe thấy một người hầu oán trách: “Không có việc gì cũng kiếm chuyện vặt bắt chung ta làm, hôm nay bận thế này, còn một mình hầu hạ cái này, hầu hạ cái kia”. Một người hầu khác cười nói: “Để sau này Doãn tiểu thư thật sự gả cho Cậu Sáu, lúc đó cho dù cô muốn hầu hạ anh họ, còn không có cơ hội ấy chứ”. Hai người vừa nói vừa đi xa dần. Hứa Kiến Chương như bị sấm nện vào đầu, trong lòng cứ nghĩ, ngay cả người hầu cũng nói thế, đủ để thấy Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong thân mật đến mức nào, không hỏi mà biết. Trong lòng như có dầu sôi lửa bỏng, điếu thuốc cầm trên tay bất giác bị anh bóp nát, những sợi thuốc lá nát vụn rơi lả tả trên thảm trải nền.

Hà Tự An đợi trong phòng điện báo không rời một bước, đến tận lúc nhận được bức điện mật đó, anh mới thở phào nhẹ nhỏm, đích thân cầm bức điện đến phía sau báo cáo với Mộ Dung Phong. Mộ Dung Phong vẫn ngồi hút thuốc trước ban công, trên chiếc ghế mây nhỏ bên cạnh có bày mấy món ăn, Hà Tự An nhìn dáng vẻ đó, hình như chưa hề động đũa. Hà Tự An ho nhẹ một tiếng, nói: “Cậu Sáu, điện báo của Trương Kỳ Vân đến rồi”.

Mộ Dung Phong khẽ búng tàn thuốc lá, hỏi: “Thế nào?”.

Hà Tự An nói: “Đã thuận lợi nắm lấy binh quyền của Từ quân, đã tiếp nhận xong toàn bộ quan quân từ sư đoàn số bốn trợ lên”. Mộ Dung Phong giờ mới nói: “Vậy mấy tiếng nữa hãy điện báo toàn quốc đi, ngoài ra viết giúp tôi một bức thư tay cho đại tổng thống, dùng mật điện lập tức gửi đi, nói rõ sự việc này. Hai kẻ Từ, Thường mưu đồ tạo phản, sau khi sự việc bại lộ lại mưu đồ hành thích, việc này tuy là xấu trong nhà, nhưng càng che giấu người ta càng nói nhiều”. Hà Tự An vâng một tiếng, Mộ Dung Phong lại hỏi: “Tình hình trong Đào phủ thế nào?”. Hà Tự An nói: “Hiện vẫn ổn”. Mộ Dung Phong nói: “Lát nữa công bố tin tức, tuyệt đối không được xảy ra rối loạn”. Hà Tự An đáp: “Cậu Sáu an tâm, bên ngoài có quân đoàn trường Đào đích thân bố trí, bên trong có tứ phu nhân”. Chợt trong phòng vang lên một tiếng “cạch”, hình như cửa phòng ngủ vừa mở ra. Mộ Dung Phong đứng phắt dậy, quay người đi vào trong phòng, quả nhiên bác sĩ Millet đã bước ra ngoài, y tá theo sau đang bưng một chiếc khay nhỏ, Mộ Dung Phong thấy trên khay có một đầu đạn đẫm máu, mới thở phào nhẹ nhõm. Bác sĩ Millet nói: “Cuối tuần này là thời gian nguy hiểm vì vết thương quá sâu, có thể dễ dàng bị nhiễm trùng. Hy vọng Chúa phù hộ cô gái này”.

Mộ Dung Phong đi thẳng vào trong, thấy y tá vẫn đang giúp rửa vết máu cho Tĩnh Uyển, cô vẫn đang hôn mê. Anh vốn có rất nhiều việc phải làm, nhưng không nỡ rời đi, đến khi Thẩm Gia Bình tới, gọi nhỏ: “Cậu Sáu, họ đều đã đến rồi”, anh mới xuống lầu họp.

Cuộc họp kéo dài đến tận nửa đêm, mật điện khắp nơi lần lượt truyền về, các tướng lĩnh của Thừa quân trải qua sự việc kinh hồn bạt vía ấy, thần sắc lời nói đều lộ vẻ khác thường. Đến lúc nhận bức điện cuối cùng từ phía Nam cũng đã khoảng hai, ba giờ sáng, đêm vắng tĩnh mịch, Mộ Dung Phong mới thật sự cảm thấy cục diện đã được khống chế, khẽ ngáp một cái nói: “Trời sắp sáng rồi, về đi ngủ hết đi”.

Đám tướng lĩnh đó cùng nhau đứng dậy hành lễ, một vị lão tướng trong đó đặc biệt cung kính nói: “Cậu Sáu phải bảo trọng, trọng trách sau này còn lâu dài”. Mộ Dung Phong gật đầu nói: “Sau này vẫn còn phải nhờ mọi người giúp đỡ”. Anh định đứng dậy tiễn, những thuộc cấp đó luôn miệng nói: “Không dám” rồi nối đuôi nhau lui ra.

Thẩm Gia Bình đi lên phía trước một bước, hỏi nhỏ: “Cậu Sáu cơm trưa cơm tối đều không ăn, bảo nhà bếp chuẩn bị chút đồ ăn đêm nhé”. Mộ Dung Phong giờ mới cảm thấy dạ dày râm rẩm đau, nhưng chẳng muốn ăn chút nào, chỉ lắc đầu nói: “Tôi đi ngủ một giấc, chín giờ gọi tôi dậy”.

Tuy miệng anh nói thế, chân lại bất giác đi về phía sau, Thẩm Gia Bình mới biết là đi thăm Tĩnh Uyển, liền vội vàng theo sau: “Doãn tiểu thư bây giờ vẫn chưa thể cử động, bảo họ thu dọn một phòng khác cho Cậu Sáu nghỉ ngơi nhé”. Mộ Dung Phong nói: “Tôi đến phòng sách ngủ, bảo họ đem chăn đệm đến là được rồi”. Thẩm Gia Bình vâng lời lập tức đi bố trí, Mộ Dung Phong men theo hành lang đi về căn phòng phía sau, trên lầu vẫn yên ắng, bác sĩ Millet và hai vị y tá vẫn trực ở đó, thấy anh đi vào đều đứng dậy.
Anh nhẹ nhàng bước tới xem Tĩnh Uyển, cô vẫn hôn mê chưa tỉnh, mái tóc dài đen tuyền xõa trên gối khiến khuôn măt càng trở nên nhợt nhạt hơn, bác sĩ Millet nói nhỏ: “Phải đợi hết thuốc mê cô ấy mới có thể tỉnh dậy”. Cô đắp một chiếc chăn lông kiểu Tây, vì chăn rất nhẹ càng khiến thân hình cô trở nên nhỏ bé, ngủ ở giữa chiếc giường lớn như thế, cô yếu ớt như đứa trẻ sơ sinh. Cửa sổ đối diện giường đặt một chiếc ghế sofa mềm, anh ngồi xuống đó, tiện tay móc ra bao thuốc. Bác sĩ Millet vội vàng ngăn anh lại: “Xin lỗi Cậu Sáu, phổi của bệnh nhân bị thương, tuyệt đối không được kích thích cô ấy ho”. Anh “ồ” một tiếng, đặt bao thuốc xuống. Anh ngồi ở đó, nói nghĩ ngơi một lát, nhưng vất vả cả ngày, cơ thể mệt mỏi liền ngủ thiếp đi.

Anh xuất thân từ quân nhân, chỉ chợp mắt khoảng một tiếng là tỉnh. Anh cảm thấy trên người rất ấm, hóa ra là đang đắp một chiếc chăn nhung, anh nhìn ánh sáng lờ mờ lọt qua ô cửa sổ, trời hình như sắp sáng. Bỗng nhiên Tĩnh Uyển rên một tiếng, y tá vội vàng đến xem, anh cũng bỏ chăn ra, đi tới. Tĩnh Uyển chưa tỉnh lại thật sự, y tá lấy bông thấm chút nước dấp lên môi cô, lại đo nhiệt độ cho cô, Mộ Dung Phong thấy mặt cô hơi hồng hào trở lại, đưa tay ra đặt lên trán cô, xem nhiệt độ của cô thế nào, cô lẩm bẩm gọi một tiếng: “Mẹ…”. Anh liền nói nhỏ: “Là anh, đau lắm không?”. Cô mê mê man man, y tá nói nhỏ: “Bây giờ cô ấy vẫn chưa tỉnh, để cô ấy ngủ đi”. Anh khẽ kéo mép chân, bỗng thấy cô thì thào: “Kiến Chương”. Anh vốn cúi người xuống, nghe thấy hai tiếng đó hết sức rõ ràng, trong lòng không biết là có cảm giác gì, một lát sau mới chậm rãi vươn người lên, đi ra căn phòng bên ngoài.

Thẩm Gia Bình đang ở trong căn phòng đó, thấy anh đi ra lập tức đứng dậy, anh dặn dò Thẩm Gia Bình: “Đi tìm Hứa Kiến Chương đến”. Thẩm Gia Bình chần chừ một lát, nói: “Bây giờ không tiện lắm thì phải, có nên đợi trời sáng hãy sai người đi không?”. Mộ Dung Phong tức giận, nói: “Có gì mà không tiện, lập tức gọi cậu ta đến”.

Không kịp nói yêu em – Chương 8

Chương 8

Sau khi về Vọng Châu, Tử Trị Bình liền đem ba lữ đoàn bố trí canh phòng dọc tuyến đường ray, nhân cơ hội điều hai trung đoàn tâm phúc đến Xương Vĩnh, bố trí ổn thỏa rồi lại cùng mấy vị tướng lĩnh quan hệ mật thiết đàm phán bí mật mấy lần. Ông ta sắp xếp người chuyên truyền mất điện từ Thừa Châu đến, hàng ngày chỉ có mấy chữ  nhưng động thái trong thành Thừa Châu đều nắm rất rõ ràng.

Theo quy định xưa nay của Thừa Quân, quan lớn làm việc ở biên cương, gia quyền đều ở lại Thừa Châu. Từ lúc Mộ Dung Phong nhậm chức, cho rằng đó là tập tục xấu, nói: “Mình không tin người ta, làm sao có thể khiến người ta tin mình?”. Từ đó cho phép mang theo gia quyến đi nhậm chức, nhưng mấy vị thống chế vì tránh hiểm nghi, vẫn để vợ ở lại thành Thừa Châu. Phu nhân mấy vị thống chế và nữ giới của Mộ Dung phủ xưa nay đi lại thân tình, hôm đó có phu nhân của Tử Trí Bình và mấy vị phu nhân khác cùng đánh bài ở Đào phủ.

Phòng trên mở hai bàn đánh bài, tam tiểu thư, Tĩnh Uyển, Từ phu nhân và Lưu phu nhân một bàn, Tĩnh Uyển vốn không biết đánh bài lắm, hôm đó lại may mắn, không đến hai tiếng, đã thắng khoảng ba ngàn đồng. Phòng bếp đến hỏi lúc nào ăn cơm tối, tam tiểu thư sợ cô không vui, nói: “Đợi tám vòng này đánh xong hãy nói đi”. Tĩnh Uyển có vẻ không hề quan tâm, đưa tay lên nhìn nhìn đồng hồ, cười nói: “Đã năm giờ rồi à, đợi đánh hết bốn vòng này đi”. Tĩnh Uyển có vẻ không hề quan tâm, đưa tay lên nhìn nhìn đồng hồ, cười nói: “Đã năm giờ rồi à, đợi đánh hết bốn vòng này đi”. Từ phu nhân buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư hôm nay có đi khiêu vũ không?”. Tĩnh Uyển đáp: “Hôm nay không đi nữa, Cậu Sáu nói có việc”. Lưu phu nhân vô ý ngẩng đầu lên, phì cười: “Nói Tào Tháo, Tào Tháo đến”. Tĩnh Uyển quay mặt lại nhìn, hóa ra Mộ Dung Phong đang đi đến, thấy họ đang đánh bài liền hỏi: “Ai chẳng thế? Người đó hôm nay khách ăn cơm đi”. Từ phu nhân cười nói: “Doãn tiểu thư thắng, bảo cô ấy mời Cậu Sáu ăn cơm, chúng tôi thơm lây làm khách ăn cùng được rồi”. Lưu phu nhân xưa nay có chút nỗi đau thầm kín với Từ phu nhân “ôi chao” một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư đã mời Cậu Sáu ăn cơm, mấy người rảnh rỗi chúng ta chẳng lẽ không biết điều sao?”. Tĩnh Uyển nói: “Mời khách thì mời khách, không phải là một bữa cơm đồ Tây sao? Tôi tất nhiên mời mọi người đi rồi, nhưng sao phải mời anh ấy?”. Tam tiểu thư tiếp lời: “Đúng thế, ngày mai chỉ mời chúng tôi được rồi, còn về Cậu Sáu, Doãn tiểu thư phải mời riêng cậu ấy tối hôm nay trước.”

Câu nói khiến mọi người đều cười, Tĩnh Uyển vặn người một lát, nói: “Không nói chuyện với mấy người nữa, toàn xúm lại ăn hiếp tôi”. Tam tiểu thư không kìm được đưa tay ra véo nhẹ má cô một cái, nói: “Cái đồ nhõng nhẽo này, toàn nhõng nhẽo đến mức người ta không ghét không được”. Mộ Dung Phong xem họ đánh bài một lát, rồi đi về phía sau, đánh hết vòng đó, Lưu phu nhân nói: “Không chơi nữa”. Hai người họ đều đi rửa tay, tam tiểu thư liền cười nhỏ với Tĩnh Uyển một tiếng, nói: “Em kệ chị đấy, hôm nay cả chị cũng ăn hiếp em”. Tuy nói vậy, nhưng lát sau cô nói đi thay quần áo, rồi cũng đi về phía sau.

Mộ Dung Phong thường đi về phía căn lầu nhỏ cô sống, cô biết anh cũng thích ngồi hút thuốc trong phòng khách nhỏ đó, quả nhiên đi đến cửa đã ngửi thấy mùi bạc hà nhàn nhạt, mùi hương bạc hà thanh mát đó khiến cô nhớ lại khuôn mặt thân thiết nhất quen thuộc nhất, bước chân bất giác chậm lại. Thẩm Gia Bình đứng phía sau ghế sofa, thấy cô đi vào, gọi một tiếng “Doãn tiểu thư” rồi lui ra ngoài.

Mộ Dung Phong thấy Thẩm Gia Bình tiện tay đóng cửa, mới nhích nhích người, nói: “Doãn tiểu thư, mời ngồi”. Tĩnh Uyển tươi cười, nói: “Cậu Sáu khách sáo rồi”. Cô ngồi xuống sofa đối diện, Mộ Dung Phong thấy cô chỉ mặc một chiếc sườn sám chu sa màu ánh đỏ, chiếc sườn xám đó không phải kiểu dáng bình thường, cổ khoét thành hình tim, lộ ra chiếc cổ trắng ngần, trên cổ đeo một chuỗi ngọc san hô màu đỏ. Cô thấy anh nhìn dò xét, mỉm cười đưa tay ra cho anh xem, hóa ra trên cổ tay là một chiếc vòng kiểu Tây, trên chiếc vòng xuyến đó khám đầy đá kim cương Thiên Tinh màu hồng, lấp lánh đến hoa mắt, cô nói: “Đồ anh tặng tôi ở đây này”.

Anh thấy cổ tay cô trắng như tuyết, muốn đưa tay ra nắm lấy, cuối cùng cố gắng kiềm chế, mỉm cười nói: “Họ nói thế nào?”, Tĩnh Uyển cười nói: “Còn có thể nói thế nào vừa nghe nói là anh tặng tôi, tấm tắc khen đẹp”. Cô làm mặt quỷ, nói: “Lần sau khoe chuỗi dây chuyền anh tặng tôi, đảm bảo họ lại tán thưởng cả nửa ngày”.

Do đó anh hỏi: “Sao hôm nay vui thế?” Tĩnh Uyển không nhịn được cười, nói nhỏ: “Từ phu nhân cố ý thua tiền tôi. Tôi có một quân ba, một quân năm, vốn là tôi bốc bài, tôi đã nhìn là quân bốn, nhưng tam tiểu thư lại động vào một quân, Từ phu nhân là người nhạy bén mà, lập tức đánh một quân bốn ra cho tôi ăn”. Cô vui vẻ kể, vẻ mặt đó giống một đứa bé nghịch ngợm, mặt mày tươi rói, tóc cô rất dày, có một lọn tóc buông xuống sau tai, mấy sợi đen tuyền rủ xuống má, anh muốn đưa tay ra vén lên giúp cô, nhưng chỉ có thể ngồi ở đó không động đậy, hơi thẫn thờ không tập trung, nghe cô kể chuyện đánh bài vụn vặt không quan trọng, cũng có chút ảo giác chập chờn, hy vọng ngày tháng như vậy dài thêm chút nữa. Trên bàn trà đặt một bình hoa huệ, lúc này hương tỏa thơm dịu, cách bình hoa đó, gương mặt cô giống như vầng trăng sau cửa sổ, khiến người ta quyến luyến không rời.

Rất lâu sau anh mới nói: “Tôi định mười sáu tháng này tổ chức sinh nhật cho em”. Cô nghe câu này, thu lại nụ cười, vẻ mặt cũng trở nên tập trung, nói chầm chậm: “Vậy không phải chính là tuần sau sao?” Anh “ừ” một tiếng, nói: “Sự việc có thay đổi, không thể kéo dài hơn nữa. May mà kế hoạch của chúng ta rất vẹn toàn, dự phòng cũng rất đầy đủ”. Anh ngước mắt lên nhìn cô, nói: “Nhưng trên thế giới này không có việc gì không có chút sơ hở nào hết, nếu…nếu…”. Anh vốn là người dứt khoát, nói đến đây, lại nói một chữ “nếu”, cuối cùng chỉ than nhẹ một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư, tôi rất xin lỗi, khiến em liên lụy đến việc như vậy”.

Tĩnh Uyển đáp: “Đây là tôi tình nguyện, lúc đó chúng ta cũng đã nói rồi”. Anh nhìn cô một lát, cuối cùng chỉ nói: “Nếu sự việc không thuận lợi, tôi muốn em lập tức trở về Càn Bình, một phút cũng khong được chậm trễ, họ sẽ không chú ý đến em ngay, tôi hy vọng em có thể trốn thoát”.

Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu đến bây giờ vẫn không tin tôi sao?”. Mộ Dung Phong nói: “Em phải biết nếu sự việc không thuận lợi, đến tính mạng của em tôi cũng không thể đảm bảo”. Tĩnh Uyển nhìn anh, ánh mắt như đang bốc cháy: “Cậu Sáu, tôi tuy là nữ giới, cũng biết hoạn nạn cùng chịu, huống hồ chúng ta từng nói Cậu Sáu cũng coi tôi là người hợp tác. Tĩnh Uyển không tham sống sợ chết, cũng biết việc này chắc chắn nguy hiểm, tuy việc thành tại trời, mưu sự rốt cuộc tại người, Tĩnh Uyển tin bản thân mình, cũng tin Cậu Sáu”.

Mộ Dung Phong nghe cô nói những lời ấy, trong lòng phức tạp rối ren, khó nói thành lời, cũng không biết là thích thú hay là hụt hẫng không thể tưởng tượng. Căn phòng trở nên yên tĩnh, trên tai cô đeo một đôi bông hoa bảo tháp kim cương màu hồng, dài hai tấc, đung đưa tạo nên tiếng sàn sạt khe khẽ, khiến anh nhớ đến lúc còn rất bé, mấy a hoàn phòng trên dẫn anh đi chơi, chiều tà ngày hạ đi hái hoa dạ lý hương, tỉ mẩn rút lấy nhụy – nếu không thể rút đứt đi thì xâu thành một hoa bảo tháp dài dài. Đám a hoàn đều chỉ hơn mười tuổi, là lứa tuổi nghịch ngợm, đeo những bông hoa ấy lên tai cùng nhau cười đùa, vỗ tay anh, bảo anh nhìn: “Cậu Sáu, Cậu Sáu…”. Những đóa hoa ấy, mùi hương nhàn nhạt thoảng qua, mẹ anh đứng trên bậc thang, mặc chiếc áo dài màu xanh, bên dưới thắt một ciếc váy lụa pha ren màu xanh thẫm, mỉm cười nhìn anh. Nền đá xanh ở giếng trời rỉ nước chảy, hơi nước bốc lên kèm theo hương hoa xông lên người. Tĩnh Uyển thấy anh im lặng rất lâu, tiện tay cầm một cành dạ lý hương trong bình lên, dùng ngón tay thuận theo cành hoa chầm chậm,vuốt lên tận ngọn, lại vuốt trở lại từ đầu. Anh bỗng nói: “Tĩnh Uyển… gặp được em, sao muộn thế này”. Cô nghe một câu đó, không biết vì sao trở nên sợ hãi, nhưng cô xưa nay không biết sợ, một lát sau liền ngước mắt lên, nhẹ nhàng nói: “Tĩnh Uyển có một yêu cầu quá đáng, không biết Cậu Sáu có thể đồng ý không?”.

Anh không hề suy nghĩ nói ngay: “Phàm là việc tôi có thể làm được, tôi đều đồng ý với em”. Cô nói: “Tôi với Cậu Sáu tuy quen nhau chưa lâu, nhưng cũng thân thiết như bạn cũ, Cậu Sáu có tình có nghĩa, Tĩnh Uyển khâm phục đã lâu, Tĩnh Uyển mơ mộng trèo cao, muốn kết huynh muội với Cậu Sáu, không biết Cậu Sáu có chịu đồng ý không?”.

Anh ngồi ở đó, không khí xung quanh giống như nước trong giếng, lạnh lẽo mà không chút gợn sóng, dập dềnh vỡ vụn trong mặt giếng, cắt ra bóng tối. Trên mặt anh chầm chậm nở một nụ cười, nói: “Cái này có gì mà trèo cao, anh luôn hy vọng có một cô em gái”. Tĩnh Uyển nghe anh nói vậy, cũng mỉm cười, gọi một tiếng: “Anh”. Anh cười thoải mái,nói: “Cũng hơi đường đột, anh còn chưa kịp chuẩn bị lễ ra mắt”. Tĩnh Uyển nói: “Anh hà tất phải khách sáo như thế, đều là một người nhà rồi”. Anh “ồ” một tiếng nói: “Đều là người một nhà, quả thật không cần khách sáo thì hơn”. Dừng lại một lát, anh lại tiếp: “Việc vui như vậy, bất kể là theo quy tắc cũ hay theo quy tắc phương Tây, chúng ta đều nên uống một ly rượu”. Nói xong đứng dậy ấn chuông, Thẩm Gia Bình vào nghe anh dặn dò: “Đi lấy rượu đến – rượu Vodka ấy”.

Tĩnh Uyển nghe nói uống rượu, lại hơi bất an, thấy anh đón lấy chai rượu, đích thân rót vào hai chiếc ly thủy tinh kiểu Tây, một ly rất ít, đưa cho cô, nói: “Rượu này quá mạnh, con gái uống ít thôi”. Cô cười nhận lấy, anh lại tự mình rót một ly đầy. Anh nói “cạn ly”, chạm ly với cô, rồi uống một hơi hết sạch, uống xong mới cười cười với cô. Thẩm Gia Bình thấy trong ánh mắt anh không vui vẻ, không biết xảy ra chuyện gì, nhưng vẻ mặt Tĩnh Uyển vẫn như bình thường, nên không đoán được giữa hai người họ có vấn đề gì.

Ăn tối xong, Mộ Dung Phong còn có công chuyện nên về soái phủ. Thẩm Gia Bình vốn hơi lo lắng, cuộc họp tối lại kéo dài quá lâu, khó khăn lắm mới đợi tới lúc tan họp, đã là mười một giờ đêm, anh thấy Mộ Dung Phong hơi mệt mỏi, liền hỏi: “Cậu Sáu, có cần bảo nhà bếp chuẩn bị chút đồ ăn đêm không?”. Mộ Dung Phong đáp: “Tôi không đói”. Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ anh giống như đang tức giận, không kìm được hỏi: “Doãn tiểu thư cô ấy…”. Nói chưa hết câu, Mộ Dung Phong đã rút súng ra, giơ tay lên bắn liền hai phát, một bình hoa Cảnh Thái màu xanh vỡ tan, sau bình hoa là cửa sổ, một màng kính lớn “soạt” rơi xuống, bắn mảnh thủy tinh ra đầy mặt đất. Cảnh vệ, cận vệ dưới lầu nghe thấy tiếng súng, vội vã xông lên, “rầm” một tiếng phá cửa cầm súng xông vào. Mộ Dung Phong thấy một đám cận vệ mặt mũi căng thẳng, cười nói: “Không có gì, xuống hết đi”.

Mấy cận vệ đó giờ mới đóng chốt an toàn, đeo lại súng vào sau lưng, cung kính cúi chào lui ra. Mộ Dung Phong nói với Thẩm Gia Bình: “Hình như tôi uống khá nhiều rồi, đi ngủ thôi”. Thẩm Gia Bình liền cầm lấy khẩu súng lục Browning đặc chế, giúp anh đặt xuống dưới gối, lại gọi người giúp anh chuẩn bị nước, rồi mới nói: “Cậu Sáu, tôi có một câu, không biết nên nói hay không?”. Mộ Dung Phong nói: “Nếu đã là lời không nên nói thì đừng nói”. Bao nhiêu lời Thẩm Gia Bình muốn nói mắc nghẹn lại, Mộ Dung Phong nhìn dáng vẻ cứng họng của anh ta, lại không nhịn được bật cười ha ha: “Cậu nói đi, nói đi”.

Thẩm Gia Bình nói: “Tuy bây giờ là thời đại bình đẳng dân chủ rồi, nhưng làm việc chỉ cần kết quả, trong chín tỉnh phía Bắc này, có thứ gì không nằm gọn trong lòng bàn tay ngài? Hơn nữa, tấm gương của đại soái vẫn còn đó”. Phu nhân thứ năm của Mộ Dung Thần vốn đã từng được gả cho người khác, tính khí Mộ Dung Thần đã thích thì phải có bằng được, cho nên uy hiếp người kia viết giấy bỏ vợ, ép cưới về. Mộ Dung Phong nghe Thẩm Gia Bình nhắc lại việc cũ này, liền lắc lắc đầu nói: “Không được, trái chín ép không ngọt, hơn nữa tính khí của cô ấy có chết cũng không chịu khuất phục”. Anh lại nói: “Việc này không cho phép cậu tùy ý hành động, nếu tên họ Hứa thiếu một sợi tóc ở trong tù, tôi sẽ tìm cậu hỏi chuyện”. Thẩm Gia Bình mất hứng đành đáp một tiếng “Vâng”.

Mộ Dung Phong tổ chức sinh nhật cho Tĩnh Uyển, tuy không quá phô trương, nhưng ai ai cũng biết Doãn tiểu thư là bảo bối hiện nay của Cậu Sáu, mấy thuộc cấp Thừa quân đó, có ai  không nịnh bợ chứ? Tĩnh Uyển vốn to gan, nhưng việc đã đến nước này, trong lòng vẫn hơi thấp thỏm. Sáng sớm hôm đó, Mộ Dung Phong đến gặp cô, vì đợt này anh bận, họ hiếm khi gặp riêng, thấy vẻ mặt rất trấn tỉnh của anh, trong lòng cô cũng bình tĩnh trở lại. Anh xưa nay chưa từng đến tay không, hôm nay tùy tùng sau lưng ông một giỏ hoa, bên trong đều là hoa hồng cô thích. Anh lại nói theo cách nói phương Tây: “Sinh nhật vui vẻ”, còn tận tay đưa cho cô một hộp nhung, nói: “Lần này em tự mình mở ra xem”.

Đợi các tùy tùng lui ra hết, anh mới nói với cô: “Đợi lát nữa nếu anh không quay lại… “. Tĩnh Uyển cướp lời nói: “Không thể nào, em đợi anh về rồi ăn mì (*)”. Ánh mắt anh hiện lên sự dịu dàng, nói: “Hôm nay đâu phải sinh nhật thật sự”. Cô cảm nhận được sự thương tiếc vô hạn trong đáy mắt anh, kèm theo sự quyến luyến phức tạp, nên không dám nhìn nữa, nói: “Sinh nhật em chính là ngày hôm nay, em đợi anh về ăn mì”. Cô lại lấy chiếc đồng hồ vàng ra, nói: “Em ở đây đợi anh, đúng mười hai giờ anh sẽ quay về dự tiệc đúng không?. Anh nhìn những ngón tay trắng ngần như ngọc cầm chiếc đồng hồ vàng, trên đồng hồ vàng, trên đồng hồ khảm đá kim cương nhỏ, sáng lên cùng bàn tay nõn nà của cô. Ngón tay cô mờ mờ trong làn ánh sáng đỏ, giống như nhen một đóm lửa nho nhỏ. Anh gật đầu, nói: “Anh hứa với em, nhất định sẽ quay lại”.

(*) Người Trung Quốc có phong tục ăn mì Trường Thọ trong ngày sinh nhật, để cầu mong sống lâu (BTV)

Sau khi anh đi, tuy Tĩnh Uyển cố gắng trấn tĩnh nhưng vẫn cảm thấy hai má nóng ran, giống như là sốt. Cô đi rửa mặt, cẩn thận trang điểm lại, rồi mới mở chiếc hộp gấm anh đưa. Hóa ra bên trong lại là một khẩu súng nhỏ kiểu Tây khảm đá quý, tinh xảo như món đồ chơi, được lắp đầy đạn. Dưới súng đè một bức thư, bên trong là một phiếu gửi tiền mười vạn đồng mang tên cô, một tấm vé tàu hỏa mười hai giờ ba mươi phút từ Thừa Châu đi Càn Bình. Tim cô đập thình thịch, nhất thời tâm trạng rối bời, tựa trên chiếc ghế sofa dài, không thể suy nghĩ được gì hơn.

Không kịp nói yêu em – Chương 7

Chương 7

Nghe hết buổi kịch hôm đó, khi Tĩnh Uyển quay về Đào phủ đã khoảng mười một giờ. Cô ngủ muộn, nhưng trong lòng có tâm sự nên dậy từ rất sớm. Tuy cô đã tỉnh, nhưng biết quy tắc của Đào phủ, ngoài Đào tư lệnh cần phải ra ngoài làm việc, những người khác đều ngủ đến ít nhất là mười giờ mới dậy. Cho nên cô nằm đó, nghĩ lại từng chuyện cảm thấy tất cả giống như một bộ phim, chiếu lại một lượt trước mắt, nghĩ đi nghĩ lại cứ cảm thấy không yên, khó khăn lắm chịu đựng đến mười giờ mới đánh răng rửa mặt. Cô ở nhờ tại Đào phủ, đương nhiên đối đãi với trên dưới đều khách sáo, người dưới vì cô rộng rãi, lại biết cô là khách quý của Cậu Sáu và Tam tiểu thư cho nên vô cùng nịnh bợ. Lan Cầm vừa thấy cô dậy, vội cười hỏi: “Doãn tiểu thư muốn ăn gì ạ? Phu nhân chúng tôi hôm qua đánh bài thâu đêm, vừa mới đi ngủ, cho nên trong bếp có chuẩn bị sữa bò và bánh ngọt”. Tĩnh Uyển nói: “Ăn chút gì cũng được, dù sao cũng còn sớm, tôi cũng chưa muốn ăn”.

 

Lan Cầm liền gọi bếp đem sữa bỏ và bánh ngọt đến, Tĩnh Uyển uống hai ngụm sữa tươi nóng, chợt nghe thấy điện thoại trong phòng đổ chuông, cô đang thắc mắc là ai gọi đến, Lan Cầm đã đi nghe, rồi trở lại nói với cô: “Doãn tiểu thư, là Cậu Sáu”. Cô đi nghe điện thoại, Mộ Dung Phong rất khách sáo nói: “Hôm nay thời tiết rất đẹp, tôi muốn mời Doãn tiểu thư ra khỏi thành đi săn, không biết Doãn tiêu thư có vui lòng đến không?”.

 

Cô không ngờ sáng sớm anh đã gọi điện đến vì điều này, cô nghĩ một lát rồi đồng ý. Mộ Dung Phong đích thân đến đón cô, anh không vào trong, chỉ đứng ngoài xe đợi. Lan Cầm đưa cô đến cánh cổng nhỏ, từ xa xa anh đã thấy cô mặc một chiếc áo thun mùa xuân bó sát màu vàng nhạt,bên dưới mặc một chiếc quần ca rô màu xám, màu sắc tươi sáng như thế, cô mặc vào trông thật thanh thoát khí thái, phong lưu dễ thương vô cùng, đặc biệt giống như một đóa hoa nghênh xuân xinh đẹp đón gió. Tuy anh đã nhìn quen hàng trăm, hàng ngàn cô gái xinh đẹp như muôn hồng ngàn tia, trăm hoa đua sắc, nhưng cũng không kìm được nhìn cô chăm chú, ánh mắt sáng rỡ. Cô lên xe, thấy ánh mắt anh nhìn xuống, nhìn vào đôi giày da dê của mình, liền cười giải thích: “Tôi nghĩ lúc về có lẽ phải đi bộ, cho nên đi giày da”. Giờ anh mới tỉnh táo lại, ho nhẹ một tiếng,nói: “Nếu Doãn tiểu thư không ngại, chúng ta ra ngoại thành cưỡi ngựa”.

 

Tiết trời đương lúc cỏ xanh oanh liệng, vó ngựa nhẹ phi. Mộ Dung Phong vốn hơi lo lắng, đích thân giúp Tĩnh Uyên kéo chặt hàm thiếc và dây cương, đưa tay ra đỡ cô, ai ngờ cô nhanh nhẹn như chim yến, chớp mắt đã leo lên lưng ngựa, Mộ Dung Phong từ nhỏ trong quân đội, lớn lên trên lưng ngựa, thấy vậy cũng không khỏi cảm thấy người như cô thật hiếm có, thấy tư thế cô đoan trang, liền đưa dây cương cho cô, nói: “Không ngờ cô biết cưỡi ngựa”. Cô quay đầu lại tươi cười nói: “Lúc ở Saint Petersburg có môn cưỡi ngựa, tôi cũng chỉ học chút ít thôi”. Yên ngựa chọn cho cô rất mềm mại, con ngựa đó trắng muốt, trên đầu có một dấu son to bằng đồng tiền, trông rất đẹp, cô vừa nhìn thấy con tuấn mã ấy trong lòng đã thích, phi một vòng xa lên trước, Mộ Dung Phong và cận vệ lần lượt lên ngựa.

 

Cô phi ngựa một mạch đến ba bốn dặm, cảm thấy mệt rồi ghìm dây cương lại, mấy cận vệ xa xa phía sau, chỉ có Mộ Dung Phong đuổi theo, thấy cô chạy chậm dần, anh cũng ghìm ngựa, đi song song với cô, ung dung mặc ngựa chậm rãi đi về phía trước. Cô quàng một chiếc khăn lụa màu vàng nhạt, nút thắt để tuột, gió vừa thổi qua, chiếc khăn đó mỏng manh mềm mại, bất ngờ bị cuốn bay đi mất, cô “ôi chao” một tiếng. Mộ Dung Phong đang cưỡi ngựa phía sau cô, mắt lẹ tay nhanh, túm lấy chiếc khăn, cảm thấy nó thật mềm mại, hương thơm nhè nhẹ bay đến, cũng không biết là nước hoa gì, cơn gió đó thổi chiếc khăn tung bay trên tay anh, mùi hương đó càng như ngấm vào xương tủy.

 

Tĩnh Uyển nhìn vẻ mặt anh, bất giác trong lòng sợ hãi, lập tức cười mỉm đưa tay nhận lấy chiếc khăn lụa, nói: “Cậu Sáu, cảm ơn nhiều”. Cô đã tự nhiên như thế, Mộ Dung Phong vội vàng khép lại tâm trạng ấy, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo rồi”. Anh quay đầu lại huýt sáo gọi cận vệ, mấy cận vệ đó quất ngựa phi tới, bụi bay mù mịt, vây lấy hai người rồi cùng phi về phía trước.

 

Họ ra khỏi thành, đến tận lúc hoàng hôn mới trở lại thành Thừa Châu, Tĩnh Uyển cưỡi ngựa một ngày, sau đó là học bắn súng, loại súng Mauser do Đức sản xuất là nặng nhất, cô lại khoe tài hiếu thắng, không chịu thua kém người khác ngày hôm nay quả thật rất mệt. Họ đi ba bốn chiếc ô tô, lính hộ vệ đứng trên bàn đạp, tiền hô hậu ủng, xe chạy thẳng vào con phố trước cổng nhỏ của Đào phủ rồi mới dừng lại. Thẩm Gia Bình ngồi ở chiếc xe phía sau, xuống trước mở cửa xe cho Mộ Dung Phong vừa mới đưa tay ra, qua cửa kính xe thấy Mộ Dung Phong ra hiệu bằng mắt, Thẩm Gia Bình tinh mắt đã nhìn thấy Tĩnh Uyển tựa đầu vào vai Mộ Dung Phong, anh cũng không dám nhìn nhiều, vội vàng lui lại, quay người đi dặn dò tất cả cận vệ tản đi canh gác xung quanh.

Chiều tà chậm rãi như bức rèm buông xuống, bốn bề một khoảng mênh mang. Vì hai bên con phố đều là nhà sâu tường cao, cho nên không có nhiều người và xe đi lại, Thẩm Gia Bình sai người chặn hai đầu phố, xung quanh càng trở nên yên tĩnh hơn, xa xa nghe thấy tiếng xe kéo chạy qua, tiếng chuông đồng hồ leng keng leng keng rồi xa dần, xa dần. Đèn hơi ga bỗng sáng lên, một chút ánh sáng vàng vọt chiếu xuyên qua cửa xe, Mộ Dung Phong không dám nhúc nhích, cẩn thận gần như nín thở, chỉ cảm thấy mùi hương tóc thoang thoảng, rất lâu sau mới phát hiện trên tóc mai cô cài một bông hoa nhài, hoa trắng nho nhỏ, giống như một chiếc khuy áo màu bạc, tỏa hương trên mái tóc đen tuyền như ngọc.

 

Anh chưa bao giờ ngồi yên, không nhúc nhích chút nào như vậy, cánh tay phải dần dần tê dại đi, đáng nhẽ cực kỳ khó chịu nhưng lại giống như bị kiến bò, ngứa ngáy kỳ lạ. Cửa xe kéo xuống một nửa, gió lùa trong xe, tóc cô lướt trên mặt anh, càng có cảm giác hơi ngứa, nhưng ngứa đến tận trong tim. Trong giấc mơ cô vẫn hơi chau mày, khóe môi hơi chùng xuống, trên môi thoa một chút son Max Factor, trong ánh sáng lờ mờ xuyên qua từ cửa xe, làn môi ấy sáng bóng lên như mật. Anh không dám nhìn nữa, quay mặt đi nhìn ra ngoài, trên tường Đào phủ leo đầy cây mây, anh nhìn rất lâu, mới nhận ra đó là hoa lăng tiêu, có mấy cành hoa nở sớm, màu vàng tươi đẹp, một khối nõn nà, giống như chiếc cốc đá trên án thư của anh, mờ ảo lấp lánh. Nghe thấy tiếng bước chân đi lại nhè nhẹ của cảnh vệ và tiếng gió thổi cành hoa lay động, buổi tối mùa xuân không có ánh trăng, anh cũng không muốn động đậy, dường như lâu dài cùng trời đất, tình nguyện cứ ngồi mãi như thế.

 

Đào phủ vẫn chưa ăn cơm tối, Tam tiểu thư và mấy vị phu nhân buổi chiều bắt đầu đánh mười sáu vòng, đến bảy, tám giờ tối bác Lý ở nhà trên đến hỏi Tam tiểu thư: “Phu nhân, nhà bếp hỏi lúc nào thì ăn cơm tối?”. Tam tiểu thư ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ trên tường, liền “ôi chao” một tiếng nói: “Hóa ra đã muộn vậy rồi, đánh bài cũng không cảm thấy đói”. Một vị phu nhân khác họ Hà liền cười nói: “Đào phu nhân thắng tiền, đương nhiên không thấy đói rồi”. Mọi người đều cười, Tam tiểu thư vừa cười vừa quay đâu lại dặn dò bác Lý: “Đi xem xem, nếu Doãn tiểu thư về rồi thì mời cô ấy đến ăn cơm.”

 

Bác Lý vâng rồi đi, trong phòng trên vẫn đánh bài, dưới Tam tiểu thư là phu nhân Từ thống chế, Tư phu nhân liền hỏi: “Doãn tiểu thư đó có phải vị tiểu thư hôm qua cùng đi nghe kịch với Cậu Sáu không?” Tam tiểu thư cười cười, không trả lời. Hà phu nhân liền nói: “Nghe nói rất xinh đẹp”. Một vị Trác phu nhân khác cười nói: “Bạn gái Cậu Sáu có cô nào là không xinh đẹp chứ?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Dù sao Cậu Sáu nhà chúng tôi vẫn chưa có thiếu phu nhân, cho nên cậu ấy có bạn gái cũng là chuyện rất bình thường”. Đang nói chuyện bác Lý đã quay lại, Tam tiểu thư buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư về rồi sao?”. Bác Lý đáp: “Về rồi ạ”, rồi lại nói tiếp: “Lúc tôi đến, Doãn tiểu thư lên lầu thay quần áo rồi, nhưng Cậu Sáu ở dưới lầu, bảo phu nhân không cần đợi Doãn tiểu thư ăn cơm, cậu ấy mời Doãn tiểu thư ăn tối”.

 

Tam tiểu thư nghe thấy Mộ Dung Phong đến, liền hỏi: “Cậu Sáu còn nói gì không?” Bác Lý đáp: “Cậu Sáu không nói gì khác”. Tam tiểu thư nghĩ một lát, cảm thấy vẫn không nên đi làm phiền hai người đó, do vậy liền bảo nhà bếp dọn cơm nước. Phụ nữ vốn là chúa tò mò, trong phòng ăn Từ phu nhân không nhịn được hỏi: “Xem ra Doãn tiểu thư này không hề tầm thường”. Tam tiểu thư cười nói: “Tầm thường hay không tầm thường làm sao nói rõ ràng được chứ?”. Cô càng lấp lửng như thế, mấy vị phu nhân lại càng khẳng định hơn, trong lòng cứ suy đoán.

 

Chuyện kiểu này vốn được lan đi rất nhanh, hơn nữa mấy ngày liền Mộ Dung Phong mời Tĩnh Uyển đi xem phim, khiêu vũ, ăn cơm, hai người ở bên nhau như hình với bóng, hành động của anh vốn có rất nhiều người chú ý nên càng không giấu được. Tĩnh Uyển vì có việc muốn xin giúp đỡ, huống hồ Mộ Dung Phong luôn đối xử với cô rất khách sáo, cho nên không dám từ chối. Cô vì việc của Hứa Kiến Chương mà nóng ruột nóng gan, lòng như lửa đốt, cho nên không có tinh thần vui đùa, Mộ Dung Phong bèn nghĩ cách khiến cô cười. Vì cô muốn học bắn súng, ngày hôm đó anh đặc biệt được cô đến thao trường tập bắn.

 

Từ Trị Bình vốn vì việc đóng quân mà đến tìm Mộ Dung Phong, đợi rất lâu ở hành dinh đốc quân mới biết Mộ Dung Phong đã đến thao trường, ông ta liền ngồi xe đến thao trường. Thao trường đó là Mộ Dung Thần xây dựng lúc còn sống, sàn lát đá trắng, nhìn không thấy điểm cuối, vốn dùng lúc vào lúc duyệt binh, bình thường cũng dùng làm nơi luyện bắn súng của cảnh vệ. Vì Mộ Dung Phong ở đây, bốn bề đều có lính canh, cách không xa, có vệ binh vác súng đứng im.

 

Từ Trị Bình từ xa đã thấy dưới chân tường thành có cắm bia bắn. Thẩm Gia Bình ở bên cạnh Mộ Dung Phong lắp sẵn đạn, Mộ Dung Phong nhận lấy súng, nói với Tĩnh Uyên: “Loại súng này sức giật nhỏ hơn chút, nhưng tay vẫn phải nắm thật chắc”. Anh từ nhỏ ở trong quân đội, từ nhỏ nghịch súng ống, vừa đưa tay lên, chỉ nghe thấy một tiếng “đoàng”, người phụ trách xem bia đã reo hò, hết lên: “Hồng tâm! Hồng tâm!”. Anh đưa súng cho Tĩnh Uyển: “Em thử đi!”. Thấy cô dùng hai tay cầm súng, anh cúi đầu giúp cô ngắm chuẩn: “Thấp một chút, thấp hơn một chút nữa, được, bắn”.

 

Tĩnh Uyển tuy có sự chuẩn bị, nhưng lúc bóp cò, sức giật của súng quá mạnh, khẩu súng trong tay gần như không giữ vững, Mộ Dung Phong đưa tay ra giúp cô nắm chắc súng, quay đầu lại thấy Từ Trị Bình, mới chào một câu: “Chú Từ đến rồi à”. Từ Trị Bình lại hành lễ rất quy tắc: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong hỏi: “Chú Từ có việc gì?”. Từ Trị Bình nói: “Từ mùa đông năm ngoái, người Nga phái người đóng quân tại dọc tuyến đường sắt càng ngày càng nhiều, hôm trước người Nga lại nói muốn tăng thêm lượng quân đóng giữ, theo tôi thấy, đám người Nga này không yên phận, chúng ta phải có phòng bị”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng. nói: “Vậy chú Từ có dự định gì?”

 

Từ Trị Bình nói: “Nên tăng thêm quân ở dọc tuyến đường sắt Thừa Châu, để phòng nước Nga giở trò”. Mộ Dung Phong nói: “Tập kết đóng quân của Thừa Châu đều từ Dư Gia Khẩu đến Bình Dương, nếu điều binh đến phía Bắc, sự phòng thủ của Dĩnh quân sẽ giảm đi”. Từ Trị Bình nói: “ Dĩnh quân đang đánh nhau túi bụi với An Quốc quân của Khương Song Hỷ, Nam tuyến tạm thời không phải lo lắng, trước mặt nên rút quân đến phía Bắc”. Mộ Dung Phong nghĩ một lát: “Không, vẫn nên điều động ba lữ đoàn từ điểm đóng quân Vọng Châu của chú, bố trí canh phòng đến dọc tuyến đường sắt Quế An của Ninh Xương”. Trong lúc họ nói chuyện, Tĩnh Uyển đã tự bắn được bốn, năm phát, phát nào cũng trượt, viên cuối cùng khó khăn lắm mới chạm vào bia, trượt qua viền bia lại bay ra ngoài. Mộ Dung Phong nhìn thấy bật cười ha ha, Tĩnh Uyển quay đầu lại nhìn anh, anh liền nói: “Em lườm tôi làm gì, tôi thay em nhớ đấy, viên đạn này sáu hào một viên, em đã lãnh phí mấy đồng rồi!”. Tĩnh Uyển “hừ” một tiếng nói: “Tuần duyệt sứ của chín tỉnh hóa ra cũng keo kiệt như thế”.

Anh nói: “Đối với em thì phải keo kiệt một chút, ai bảo em keo kiệt với tôi chứ”. Tĩnh Uyển giẫm chân, lườm anh thêm cái nữa, dáng vẻ như muốn oán trách nhưng lại nhẫn nhịn. Từ Trị Bình thấy cảnh đó, liền cúi người cáo từ nói: “Cậu Sáu, vậy tôi làm theo ý cậu, đi điều binh trước”.

 

Mộ Dung Phong nhận lấy súng, đưa cho Thẩm Gia Bình lắp lại đạn, thuận miệng “ừ” một tiếng. Từ Trị Binh rời khỏi thao trường, không về thẳng Vọng Châu mà đến phủ của Thường Đức Quý. Thường Đức Quý vốn nghiện thuốc, buổi chiều không có việc gì, xem mấy vị phu nhân đánh bài, ông ta rút hai điếu thuốc, đứng dậy đánh bài giúp thất phu nhân, Tam phu nhân liền hét lên: “Ông này bất công quá, mấy chị em chúng tôi đang chơi bài ông lại xen vào”. Một vị phu nhân khác cũng không chịu, đang léo nhéo nói chuyện, la hét ầm ĩ, vô cùng ồn ào, bỗng nghe thấy ngoài cửa có người nói: “Ông anh có phúc thật”.

 

Thường Đức Quý thấy Từ Trị Bình đi vào, hai nhà vốn tình cảm thắm thiết, liền vội vã đứng dậy đón tiếp, hai người sang giường thuốc (*) tán gẫu vài câu trước, mấy vị phu nhân kéo sang phòng khách đánh bài, chỉ để lại một a hoàn châm thuốc, Thường Đức Quý mới hỏi: “Ông đến gặp Cậu Sáu?”. Từ Trí Bình vốn không hút thuốc, chỉ uống nửa tách trà, chậm rãi nói: “Không phải vẫn vì chuyện đóng quân sao?”. Thường Đức Quý hỏi: “Vậy Cậu Sáu nói sao?”. Từ Trí Bình vuốt vuốt hai lọn râu bên mép, mỉm cười nói: “Cậu ta bảo tôi điều ba lữ đoàn, đóng từ Ninh Xương đến Quế An”. Thường Đức Quý vừa bất ngờ vừa mừng, đặt tẩu thuốc xuống, chắp tay nói: “Lão đệ, vẫn là đệ có cách”.

(*) Giường thuốc: Loại giường chuyên dùng để hút thuốc, thường có trong các gia đình quý tộc (BTV)

Từ Trị Bình nói: “Từ lúc đánh trận xong, tôi thấy tâm tư cậu ta không còn đặt ở việc chính nữa. Mấy tháng trước vì một cô gái mà bỏ ra bao nhiêu tiền đi lập trường học gì đó, sau này lại đưa phụ nữ đi nghe kịch, ngày ngày chỉ biết nghe kịch, nghe nói hai ngày trước lại say mê một người, hôm nay thấy cậu ta ở thao trường dạy cô gái đó bắn súng, tôi nói chuyện với cậu ta, cậu ta không tập trung. Nếu đại soái có linh thiêng…”. Ông ta nói đến đây, không kìm được than một tiếng. Thường Đức Quý vỗ chân một cái nói: “Dù sao tên tiểu tử này cũng là Lưu A Đẩu (*) không thể dìu dắt được”.

 

(*) Lưu A Đẩu: Con trai của Lưu Bị, trước khi chết Lưu Bị gửi gắm cho Gia Cát Lượng dìu dắt A Đẩu, nhưng vì A Đẩu ngu tối, bất tài, sau khi Gia Cát Lượng chết, rốt cuộc Thục vẫn bị diệt vong (BTV)

 

Từ Trị Bình nói: “Nói cậu ta là Lưu A Đẩu thì có hơi quá. Ông xem lúc đánh trận, cậu ta dụng binh cũng không hề thua kém đại soái. Chính là cậy chút thông minh nên mới ngang tàng, không coi đường, sớm muộn cũng có chuyện”. Thường Đức Quý cầm tách trà lên, uống ực một hơi hết sạch, lau miệng nói: “Trước lúc đại soái chết tuy không trăn trối lại lời nào, nhưng mấy lão già chúng ta là người nhìn Cậu Sáu lớn lên, nói một cách huênh hoang, nếu cậu ta phạm sai lầm, chúng ta nên chỉ ra. Cành cây mọc cong phải uốn cho thẳng, người đi đường vòng thì phải kéo anh ta lại”.

 

Từ Trị Bình dùng nắp tách trà hớt bỏ lá trà, nói: “Tôi lại nghe nói Cậu Sáu có ý muốn nghị hòa với Dĩnh quân”. Thường Đức Quý vừa nghe, đập bốp một cái lên chiếc kệ, tách trà, đĩa đồ điểm tâm, đèn thuốc, gạt tàn thuốc, tẩu thuốc trên chiếc kệ.. .hết thảy đều nảy hết lên, cả người ông ta cũng nhảy lên, quát lớn: “Cái thằng ranh con! Không có tiền đồ, giang sơn ông đây cùng đại soái dùng mồ hôi và máu giành về, một câu của nó là muốn hai tay dâng cho người khác sao! Nó muốn nghị hòa, trước hết phải hỏi xem khẩu súng này của ta có đồng ý hay không!”.Nói xong rút khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra đập lên chiếc kệ “rầm” một tiếng.

 

Từ Trị Bình vội kéo ông ta lại, nói: “Lão huynh, cẩn thận, cẩn thận”. Thường Đức Quý tức sùi bọt mép: “Người phải cẩn thận là tên nhóc đó, tự làm theo ý mình, có bao giờ coi mấy anh em chúng ta ra cái gì chứ?” Chúng ta trong sáng trong tối, từng chịu bao nhiêu khổ cực rồi? Nó nghe lời xúi bẩy của lũ bất tài Lưu Tử Sơn luôn thiên vị chúng, hễ tranh luận với nó, nó liền lấy cái danh tuần duyệt sứ ra ép ông mày, ông mày nể mặt đại soái, không tính toán với nó, nó lại còn càng ngày càng vênh mặt lên. Lúc chúng ta theo đại soái mưa bom bão đạn, nó còn trốn trong lòng mẹ bú sữa đấy. Bây giờ đại soái vừa nhắm mắt, nó liền ngồi lên đầu chúng ta, cho dù nó là con của đại soái, ông đây cũng không tha cho nó”.

 

Không kịp nói yêu em – Chương 6

Chương 6

 

Mộ Dung Phong nghe những lời đó, trong lòng dường như có sóng động, một lát sau bỗng mỉm cười: “Doãn tiểu thư từ xa đến, cũng phải để tôi hết lòng tiếp đãi, ngày mai tôi muốn mời Doãn tiểu thư đến nhà tôi ăn bữa cơm, không biết Doãn tiểu thư có vui lòng đến dự không?”.

 

Tĩnh Uyển từ chối hai câu rồi cũng nhận lời. Mộ Dung Phong lại hỏi: “Không biết Doãn tiểu thư hiện giờ ở đâu, ngày mai tôi phái người đến đón”. Tĩnh Uyên liền nói cho anh biết tên nhà trọ, anh hơi chau mày, lập tức cười nói: “Thừa Châu là nơi hẻo lánh, không thể so được với cố đô Càn Bình phồn hoa, quán trọ đó e rằng sẽ làm khổ tiểu thư rồi, chị Ba và Doãn tiểu thư rất có duyên, chị ấy cũng rất hiếu khách. Nếu Doãn tiểu thư không chê, có thể chuyển về đây ở không?”

 

Tĩnh Uyển nghe anh mời mình về ở trong Đào phủ, trong lòng đương nhiên thấy kỳ lạ, do dự một lát thấy ánh mắt ánh sáng ngời, nhìn thẳng vào mình, đôi mắt đó giống như bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Cô nhất thời liền quyết định, nói: “E rằng làm phiền chị ba anh, vậy ngại lắm”.

 

Môi anh hé nụ cười, nói: “Chị ấy là người rất hiếu khách, Doãn tiểu thư yên tâm”. Anh vừa nói vừa ấn chuông gọi người, vì biết anh ở đây cho nên không phải là người hầu của Đào gia mà là tùy tùng của anh đi vào đợi lệnh, anh liền nói cho tùy tùng địa chỉ quán trọ, dặn dò: “Đi lấy hành lý của Doãn tiểu thư”, lại nói: “Nói với chị ba tôi một tiếng, bảo là tôi có việc mời chị ấy đến”.

 

Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, sau khi Mộ Dung Thần qua đời, Mộ Dung Phong là người đứng đầu thực chất, Tam tiểu thư tuy nhiều tuổi hơn anh, nhưng nghe anh phái người tìm mình một lát sau liền đến ngay. Mộ Dung Phong nói với cô: “Chị ba, em thay chị mời Doãn tiểu thư ở lại đây”. Tam tiểu thư cảm thấy hơi bất ngờ, nhưng lập tức cười nói: “Chị đương nhiên là tán thành rồi, Doãn tiểu thư chịu vui lòng đến thì tốt quá”. Cô nồng nhiệt nắm lấy tay Tĩnh Uyển: “Chị chỉ sợ Doãn tiểu thư chê chỗ chị buồn chán”, lại nói tiếp: “Nếu Doãn tiểu thư không chê, ở căn nhà phía Tây có được không?”. Tuy chỗ đó hơi nhỏ, nhưng lầu trên lầu dưới, xung quanh đều là hoa viên, rất yên tĩnh, hơn nữa phía trước có một cổng, nếu có việc ra vào, ví dụ như lên phố, cũng không cần đi quá xa cổng chính”.

 

Đào gia vốn là khu biệt viện kín cổng cao tưởng, phòng trống rất nhiều, Tam tiểu thư tự mình đưa Tĩnh Uyển đi xem phòng, sự niềm nở ấy khác hắn vừa lúc mới gặp. Căn nhà đó tuy để trống, nhưng hàng ngày đều có người quét dọn sạch sẽ, không một chút bụi. Dưới lầu là phòng khách và hai phòng nhỏ, thêm một căn bếp, trên lầu có mấy phòng ngủ, một trong số đó rất rộng rãi, thiết kế kiểu phương Tây, Tam tiểu thư dặn dò Lan Cầm, một nha hoàn làm việc ở nhà trên đến dọn chăn đệm mới tinh, trải trên chiếc giường lò xo kiểu Tây, nói: “Tất cả đều sạch sẽ, Doãn tiểu thư cứ yên tâm”. Cô lại chỉ Lan Cầm nói: “Con bé này cũng khá ngoan ngoãn, Doãn tiểu thư không đem theo người đến, để nó đến hầu hạ Doãn tiểu thư đi”.

 

Tĩnh Uyển đương nhiên luôn miệng cảm ơn, phòng ngủ đó có ô cửa sổ dài sát đất kiểu Tây, đầy cửa là đi ra ban công. Bầu trời đầy sao lấp lánh, những ánh sao lẻ loi chiếu vào nơi tối nhất của bóng cây. Gió thổi qua, lá cây lay động, cô nhìn về con phố bên ngoài tường không xa, đối diện lại là bờ tường đá granite, nhìn trông âm u tĩnh mịch, lờ mờ có thể thấy các căn nhà nối tiếp không ngừng, không có những chóp nhà cao cao, có vẻ đó là một tòa nhà rất lớn với lớp lớp các căn nhà.

 

Con đường được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn hơi ga, soi rõ lưới điện mắc trên bờ tường đối diện, trên lưới điện buộc rất nhiều dây thép gai, trên tường cắm đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Chỗ góc rẽ có một ngọn đèn đường, bên dưới là một trạm gác cảnh sát, dưới bờ tường cách không xa lại có một vệ binh vác súng đi đi lại lại, rõ ràng bên trong bờ tường ấy là một nơi rất quan trọng. Cô không kìm được hỏi: “Đó là chỗ nào thế?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Đó là hành dinh đốc quân”. Tĩnh Uyển bất giác “ồ” lên một tiếng, hóa ra đó chính là hành dinh đốc quân tuần duyệt sứ chính tỉnh mà người ta gọi là “Đại soái phủ”, hóa ra căn nhà này và soái phủ chỉ cách nhau một con phố, chẳng trách Tam tiểu thư lại sắp xếp như vậy.

 

Trưa ngày hôm sau Mộ Dung Phong sai người đến đón cô. Người đến đón tuy mặc quân phục nhưng thái độ rất nhã nhặn ôn hòa, thấy Tĩnh Uyển thì lịch sự giới thiệu: “Chào Doãn tiểu thư, tôi là Thẩm Gia Bình, đội trưởng vệ quân của Cậu Sáu, Cậu Sáu phái tôi đến đón Doãn tiểu thư”.

 

Tuy cô đã có sự chuẩn bị nhưng trong lòng ít nhiều vẫn thấp thỏm bất an, cô kiêu ngạo gan dạ hơn người, ngồi trên xe cuối cùng cũng trấn tỉnh lại. Đào phủ và soái phủ vốn không xa nhau, đi một lát đã đến, ô tô đi thẳng vào trong, đi thêm một đoạn rất xa rồi mới dừng lại. Đã có người hầu đợi sẵn đi lên mở cửa giúp cô, hóa ra ô tô dừng lại ở trước một tòa nhà gạch xanh rất lớn, trước lầu là vườn hoa kiểu Tây, giữa mùa xuân cành lá sum sê tươi tốt, vô cùng đẹp đẽ. Người làm dẫn cô vào bên trong, trên đường đi xuyên qua một phòng khách như cung điện, đi qua hành lang là một phòng khách thiết kế theo kiểu Tây, nền trải một tấm thảm, giẫm lên mềm mại không phát ra tiếng động, trên thảm là hình hai đóa hoa phù dung rất lớn, bộ ghế sofa giống như nhụy hoa ở giữa. Cô vừa ngồi xuống liền có người bưng trà lên.

 

Cô vừa uống trà vừa đợi một lát, bỗng nghe thấy bên ngoài bức bình phong có người vừa nói chuyện vừa đi vào: “Thật xin lỗi, để Doãn tiểu thư đợi lâu”. Chính là Mộ Dung Phong, ở nhà anh mặc áo sơ mi dài, khí thái anh hùng lại thêm vài phần nho nhã. Cô thướt tha đứng dậy, anh thấy cô hôm nay mặc váy dài kiểu phương Tây, càng trở nên duyên dáng, thấy cô thoải mái đưa tay ra, anh vội vàng bắt tay với cô: “Vốn định tự mình đi đón Doãn tiểu thư, nhưng buổi sáng có chút việc đột xuất cho nên đến muộn, mong Doãn tiểu thư thông cảm”.

 

Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu là quản lý quân sự chính trị của chín tỉnh, trăm công nghìn việc, tôi mới là người đến làm phiền, vô cùng có lỗi”. Mộ Dung Phong ngồi xuống  nói chút chuyện phong cảnh Thừa Châu, không lâu sau liền có người làm đến báo: “Nhà bếp xin ý kiến Cậu Sáu, đã chuẩn bị xong hết rồi ạ”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy ăn cơm trước đi”. Anh đứng dậy, đột nhiên nói: “Doãn tiểu thư cứ ngồi đó, tôi đi một lát rồi quay lại”. Không lâu sau, Mộ Dung Phong liền thay một bộ Tây phục đến, cười nói: “Hôm nay mời Doãn tiểu thư thử tài nghệ nấu đồ Tây của nhà chúng tôi”. Tĩnh Uyển thấy anh thay Âu phục, càng trở nên phóng khoáng phong lưu, nhưng dẫu sao trẻ tuổi, cũng thích thời thượng giống các công tử phong lưu bình thường. Lại nghe anh nói là ăn đồ Tây, cô liền đáp: “Cậu Sáu khách sáo quá rồi”.

 

Nhà bếp của Mộ Dung phủ đương nhiên không hề tầm thường, nấu ăn cũng rất đúng kiểu. Tuy chỉ có hai người ăn cơm, nhưng có một đống người hầu hạ rất niềm nở. Vừa mới đưa lên món chính thứ hai, bỗng một người hầu đến báo cáo: “Cậu Sáu, sư đoàn trưởng Thường xin gặp”.

 

 Mộ Dung Phong nói: “Mời ông ấy vào đi”.

 

Một lát sau, người hầu liền dẫn vị sư đoàn trưởng Thường đó vào, Tĩnh Uyển thấy người này khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng vẻ oai phong vừa mở miệng là tiếng vang như chuông đồng, ông ta gọi một tiếng: “Cậu Sáu”. Sự đoàn trưởng Thường nhìn thấy Tĩnh Uyển, thầm ngạc nhiên, đôi mắt chỉ lo dò xét. Vì ông ta là thuộc cấp cũ của Mộ Dung Thần nên xưa nay Mộ Dung Phong gọi là “chú Thường”, anh hỏi: “Chú Thường chắc vẫn chưa ăn cơm, ngồi xuống ăn chút nhé”. Vị sư đoàn trưởng Thường đó giận dữ đùng đùng đi đến, vì có mặt người ngoài nên một bụng tức giận mà cố kìm nén không xả ra, khó chịu nói: “Cảm ơn Cậu Sáu, tôi ăn rồi. Cậu Sáu có thể nói chuyện riêng với tôi vài câu được không?”.

 

Mộ Dung Phong nói: “Có gì chú cứ nói đi, Doãn tiểu thư không phải người ngoài”. Vì anh chưa kết hôn hên xưa nay không tiếp nữ giới ở nhà, sư đoàn trưởng Thường ngẫm nghĩ, cảm thấy vị Doãn tiểu thư này nhất định là người đặc biệt, ông là thuộc cấp cũ theo Mộ Dung Thần chinh chiến nhiều năm, nhiều lúc xin chỉ thị quân sự trước trưởng kỷ của Mộ Dung Thần, tứ phu nhân được Mô Dung Thần yêu chiều nhất trong những năm cuối đời luôn ở bên cạnh châm thuốc giúp ông, họ coi như không thấy bà – bây giờ cũng coi như không thấy Tĩnh Uyển, liền mở miệng nói: “Quân lương Cậu Sáu đồng ý điều động, đến bây giờ vẫn chưa tới Thượng Hả”. Mộ Dung Phong đáp: “Trước mắt quân lương thiếu hụt, chú cũng biết đấy”. Sư đoàn trưởng Thường hỏi: “Vậy tại sao Cậu Sáu lại phát hơn một ngàn bột mì cho Lưu Tử Sơn?”. Mộ Dung Phong nói: “ Lưu Tử Sơn dẫn quân trấn giữ Thượng Hải, đối đầu với Dĩnh quân, đương nhiên phải ổn định lòng quân tiền tuyến”.

 

Sư đoàn trưởng Thường hỏi lại: “Chẳng lẽ Thường Đức Quý tôi không phải đang dẫn quân đối đầu với Dĩnh quân sao? Tại sao Cậu Sáu điều quân lương cho Thượng Hải, lại không chịu cho Thượng Hà chúng tôi?”. Mộ Dung Phong cũng không tức giận, mỉm cười nói: “Chú Thường đừng nóng, đợi đợt quân lương này đến, cháu lập tức điều động đến cho chú”. Thường Đức Quý hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy, thiên vị Lưu Tử Sơn, thật khiến huynh đệ già chúng tôi đau lòng”. Mộ Dung Phong lạnh nhạt nói: “Chú Thường đa nghi quá, đều là đồng bào một quân, sao cháu lại nhất bên trọng nhất bên khinh chứ?”. Thường Đức Quý lại hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu từ nước ngài về, thích chơi mấy thứ đồ Tây, Lưu Tử Sơn biết chút ít về phương Tây, Cậu Sáu liền nhìn hắn ta bằng con mắt khác. Đồ của người Tây hoa hòe hoa sói, chỉ nhìn đẹp mắt. Đánh trận vẫn nên một súng một đạn, là thật nỗ lực mới có thể thắng được. Cậu Sáu chỉ nghe họ xúi bẩy lung tung, sớm muốn có ngày hối hận không kịp!”.

 

Mộ Dung Phong nói: “Chú Thường hà tất phải nổi nóng, chú cần quân lương, cháu chuyển đến cho chú là được rồi”. Thường Đức Quý vẫn “hừ” mộ tiếng nói: “Vậy tôi sẽ đợi”. Nói xong câu này, ông ta lại tiếp: “Cậu Sáu ăn ngon miệng, tôi xin cáo từ”.

 

Sau khi ông ta đi, Tĩnh Uyển nghe tiếng dao ăn quẹt trên đĩa bạc của Mộ Dung Phong, âm thanh rất rõ ràng, anh đặt dao dĩa xuống. Anh thấy cô nhìn mình liền cười cười nói: “Họ đều là người thô lỗ cầm quân đánh trận, bình thường nói chuyện đều như thế, khiến Doãn tiểu thư chê cười rồi”.Tĩnh Uyển nhẹ nhàng đáp: “Cậu Sáu đã coi tôi là bạn, hà tất phải khách sáo thế?”. Mộ Dung Phong nói: “Chung quy vẫn rất thất lễ, vốn là muốn giúp Doãn tiểu thư tẩy trần, ai ngờ lại mất hứng thế này”. Anh lại nói tiếp: “Buổi tối đại kịch viện Quốc Quang có vở Võ Gia Pha của ông chủ Ngụy, không biết Doãn tiểu thư có chịu nể mặt tôi không, coi như tôi mượn hoa dâng Phật, mượn kịch hay của ông chủ Ngụy để tạ lỗi với tiểu thư”.

 

Anh nói khách sáo như vậy, Tịnh Uyển không dám từ chối, nói: “Chỉ là tôi có một yêu cầu quá đáng, mong Cậu Sáu đồng ý. Tôi muốn đi thăm Hứa Kiến Chương một lát”. Mộ Dung Phong đáp: “Đây là lẽ thường tình của con người, sao nói là yêu cầu quá đáng chứ, việc này tôi có thể sắp xếp”. Anh lập tức gọi người đem giấy mực đến, vội vã viết lệnh trên bàn ăn, lại gọi người chuẩn bị xe, dặn dò: “Đưa Doãn tiểu thư đến nhà tù Đông Thành”.

 

Nhà tù Đông Thành ở ngoại thành, ngồi trong xe nhìn cây cối hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, cô cảm thấy con đường như thế đi mãi không đến đích. Bây giờ đang là mùa xuân hai bên đường bằng phẳng tĩnh mịch, xanh tươi như dệt, nhưng cô không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh. Khó khăn lắm mới thấy bức tường cao của nhà tù, trong lòng càng trở nên buồn bã.

 

Trưởng nhà tù nhìn thấy bức lệnh của Mộ Dung Phong, đương nhiên vô cùng cung kính, đưa cô vào căn phòng làm việc của mình, lại đích thân pha trà xong mới dặn dò người đi đưa Hứa Kiến Chương đến. Tĩnh Uyển làm gì có tâm trạng uống trà, cô vừa nghe thấy tiếng bước chân vẳng lại từ hành lang, trong lòng đã rối bời bời. Chỉ nghe thấy tiếng lạch cạch mở cửa, hai lính canh dẫn Hứa Kiến Chương vào, quần áo trên người cũng coi như gọn gàng, chỉ là không cạo râu, gương mặt tiều tụy đến mức vàng vọt, hai xương gò má nhô lên rất cao. Không ngờ mấy ngày không gặp, một công tử phong độ đã thành tù nhân, Tĩnh Uyển đi lên một bước nắm tay anh, muốn nói chuyện, khóe miệng hơi run, chưa nói nổi một tiếng nào, nước mắt đã lã chã lăn xuống.

 

Trưởng nhà tù thấy tình cảnh này, liền cùng hai lính canh lui ra. Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy tủi thân, khó nói thành lời, làm sao cũng không ngăn được nước mắt, Hứa Kiên Chương cũng rất buôn, một lát sau mới gượng nói: “Em đừng khóc”. Tĩnh Uyển giờ mới dần thôi khóc, lấy khăn tay ra lau khóe mắt nói: “Anh tạm thời chịu đựng thêm mấy ngày nữa, em đang cố gắng nghĩ cách. Vừa nãy em đã xin trưởng tù đổi giúp anh một căn phòng tốt hơn, quan tâm tới anh hơn một chút”. Hứa Kiến Chương giờ mới hỏi: “Sao em lại đến”. Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng, nói: “Cha đến tìm đường giúp, em cứ nằng nặc đòi theo cha”. Hứa Kiến Chương nghe cô nói cha đi cùng mới hơi yên tâm. Tĩnh Uyển lại đưa quần áo mình đem đến cho anh, ngoài ra có một tùi tiền nặng, nói: “Anh ở đây chắc chắn cần dùng rất nhiều tiền, nếu không đủ thì bảo người đưa thư, em lại đem đến cho anh”.

 

Hứa Kiến Chương nói: “Làm khó em rồi”. Anh sợ cô lo lắng, cố gắng cươi tươi nói: “Thật ra người ở đây cũng quan tâm đến anh, ăn uống cũng không quá tệ. Em đừng quá lo lắng, xem em kìa, gầy quá rồi”. Tĩnh Uyển vốn đã hơi an lòng, nghe anh nói thế, mắt lại hoe đỏ: “Anh yên tâm, em nhất định nghị cách cứu anh ra”. Hai người họ bỗng nhiên gặp mặt, có quá nhiều điều không biết phải nói từ đâu, Tĩnh Uyển thấy bên ngoài cửa lính canh và người theo hầu đưa mình đến thỉnh thoảng ngó vào trong phòng, rất nhiều lời không tiện nói, lại sợ Hứa Kiến Chương lo lắng, lung tung, chỉ nói đã tìm được người giúp đỡ, có hy vong được thả, để Hứa Kiến Chương yên tâm.

 

Cô ra khỏi nhà tù, lúc quay lại soái phủ, trời đã xế chiều, xe vẫn đi thẳng vào bên trong mới dừng lại. Cô xuống xe, xung quanh là cây cối rậm rạp um tùm, trời dần dần xầm tối, ánh chiều tà hắt trên lá cây, khiến người ta càng có cảm giác u buồn. Người hầu của soái phủ biết cô là khách quý của Mộ Dung Phong, làm gì có ai không nịnh bợ, họ niềm nở cười nói: “Doãn tiểu thư đến vườn hoa ngồi một lát được không? Cậu Sáu đang họp lát sau sẽ đến ngay”.

 

Cô ngồi uống trà ở hoa viên, vừa ngồi được một lúc,đột nhiên bên ngoài cửa có một giọng nói yểu điểu của con gái gọi: “Anh”. Cô quay đầu lại nhìn, là một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tướng mạo tuy không phải rất đẹp, nhưng thanh tú, vừa nhìn đã biết là một tiểu thư rất thông minh. Cô này thấy trong hoa viên có người lạ liền dừng bước, Tĩnh Uyển không biết thân phận cô, cũng không tiện xưng hô, đành cười cười, chào hỏi qua loa. Đang trong lúc do dự thì nghe tiếng giày da ngoài hành lang, chính là Mộ Dung Phong đang đến.

 

Cô gái đó vừa nhìn thấy anh, liền gọi một tiếng: “Anh Sáu”. Tĩnh Uyển thấy làm lạ, chưa từng nghe nói anh còn có một cô em gái như thế này. Mộ Dung Phong giới thiệu hai người cho nhau, hóa ra cô gái này chính là Triệu Thù Ngưng – em họ của Mộ Dung Phong, cậu Mộ Dung Phong qua đời từ sớm. Mộ Dung phu nhân đem cô cháu gái này về nuôi ở Mộ Dung gia, sau khi Mộ Dung phu nhận qua đời, Mộ Dung Phong nhớ thương mẹ, coi cô em họ này như em ruột, cho nên Triệu Thù Ngưng lớn lên trong Mộ Dung phủ.

 

Lúc này Mộ Dung Phong hỏi: “Thù Ngưng, buổi tối anh mời Doãn tiểu thư đi nghe kịch, em có đi không?”. Thù Ngưng cười nói: “Xem ra, anh Sáu muốn mời khách rồi, tối em hẹn bạn đi xem phim, không thể đi được”. Lúc nói chuyện, mắt cô không nhịn được nhìn Tĩnh Uyển dò xét, Mộ Dung Phong hỏi: “ Là phim gì thế, ngay cả Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà em cũng không nghe mà lại muốn đi xem phim đó?”. Thù Ngưng đáp: “Là một bộ phim tình yêu của nước ngoài, tên là Sai đến cùng, nghe nói rất hay đấy”. Mộ Dung Phong bật cười: “Cái tên này kỳ quái thật, hình như đã từng nghe tên rồi”.

 

Cô ấy không đi nghe kịch, sau bữa cơm Mộ Dung Phong và Tĩnh Uyển ngồi xe ô tô đến Quốc Quang. Đại kịch viện Quốc Quang là kịch viện sang trong nhất phía Bắc, không hề thua kém với đại kịch viện Càn Trung của Càn Bình. Vì hôm nay là lần đầu Ngụy Sương Hà lên sân khấu biểu diễn tại Thừa Châu, nên những người mê kịch, diễn viên nghiệp dư, cùng với quan to, người giàu thích nghe kịch đã đợi ở trong kịch viện từ lâu, khắp lầu trên lầu dưới đã ngồi kín ghế, toàn là đầu người đen kịt.

 

Mộ Dung Phong đương nhiên có phòng bao ở đại kịch viên, cận vệ đã bố trí canh gác đâu vào đấy, anh khoác tay Tĩnh Uyển lên lâu, tất cả cảnh vệ đứng nghiêm vác súng hành lễ, âm thanh đồng loạt âm vang như tiếng sấm rền, ngay cả nền nhà cũng hơi rung rung, hai phòng bên vốn dĩ có không ít thuộc cấp trong quân đội, thấy anh đi vào, tất cả hô một tiếng đứng dậy, lần lượt hành lễ. Tĩnh Uyển chỉ thấy trên lầu dưới lầu, mấy trăm con mắt đều nhìn vào mình, cô tuy thoải mái phóng khoáng những cũng cảm thấy khó chịu, trong lòng hơi hối hận, không ngờ trong kịch viện này có nhiều tướng lĩnh Thừa quân đến thế.

Họ ngồi xuống, mấy nhân vật quan trọng trong Thừa quân đến chào Mộ Dung Phong, tuy họ đều mặc thường phục nhưng vẫn theo lễ nghi quân đội, Mộ Dung Phong cười nói: “Được rồi, quay về nghe kịch hết đi, tôi khó khăn lắm mới đến nghe kịch một lần, mấy người cứ bày trò như thế có để ông chủ Ngụy hát không?”. Tiếng chiêng trống trên sân khấu dần dần nổi lên, Tĩnh Uyển tuy nghe nói vở Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà nổi tiếng thiên hạ, nhưng cô có bao chuyện phải lo nghĩ, làm sao nghe nổi chứ? Mắt nhìn lên sân khấu, tâm hồn sớm đã không biết bay về phương nào.

 

Đang trong lúc thất thần, Lan Cầm đã gọt xong một quả táo, đưa cho Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển liền nhường cho Mộ Dung Phong cười nói: “Doãn tiểu thư không cần khách sáo, đồ lạnh như vậy, buổi tối tôi không dám ăn”. Mộ Dung Phong nghe xong câu này mới nhận lấy, tiện tay lại đưa cho Thẩm Gia Bình đứng đằng sau lưng.

 

Trên sân khấu, Ngụy Sương Hà đang hát đến câu: “Tay cầm cung vàng đạn bạc, bắn rơi chiếc áo lụa đẫm máu. Mở áo lụa ra xem, mới biết chị ba bị giày vò. Vội vã trở về không quản ngày đêm, vì sự đoàn viên của hai vợ chồng họ”.

 

Mộ Dung Phong liền nói: “Tên Tiết Bình Quý này cò có chút lương tâm, qua mười tám năm vẫn chưa quên Vương Bảo Xuyến”. Tĩnh Uyển liền nói:  “Loại lương tâm này không cần cũng được. Hắn ở Tây Lương lấy công chúa Đại Chiến, mười tám năm vinh hoa phú quý, bỏ lại người vợ đã kết tóc se tơ, không thèm màng đến. Đến bây giờ nghĩ ra, cảm thấy nên quay về thăm, hắn ta coi phụ nữ trên thế giới này là cái gì chứ?”. Mộ Dung Phong nói: “Phụ nữ thời xưa cũng có điều khó xử của họ, mười tám năm đợi chờ, trinh tiết đó khiến người ta khâm phục, cho nên mới có kết thúc viên mãn làm hoàng hậu”. Tĩnh Uyển cười một tiếng, nói: “Loại đàn ông vong ân bội nghĩa như Tiết Bình Quý, vì giang sơn hoàng vị mà bỏ rơi cô ấy, cuối cùng cò vờ vĩnh cho cô ấy làm hoàng hậu, đấy mới là sự giả tạo thật sự. Đây cũng là sự thảm thương của phụ nữ thời xưa, nếu đổi là phụ nữ bây giờ, chắc chắn sẽ ném áo vàng mũ phượng vào người hắn, hiên ngang ra đi”.

 

Mộ Dung Phong đang định nói, vừa hay khúc: “Tây Bì nước chảy” hát xong, lầu trên lầu dưới hoan hô như sấm. Hai người cũng vỗ tay theo, Ngụy Sương Hà nhìn về phía căn phòng bao, đương nhiên vô cùng nỗ lực. Họ tiếp tục nghe kịch, trên lan can của căn phòng bao đặt đầy hạy dưa, đậu phộng, mứt hoa quả, mứt kẹo, trà, điểm tâm… Mộ Dung Phong vô cùng khách sáo, tự mình bưng tách trà đến nói: “Doãn tiểu thư, mời dùng trà”. Tĩnh Uyển vội vàng nhận lấy, luôn miệng cảm ơn. Đúng lúc đó, bỗng đằng sau lưng có người phì cười: “Hai người này, thật là khách sáo đến mức giả tạo. Trong kịch nói nâng khay ngang mày, tôn trọng nhau như khách, có lẽ chính là như thế này đây”.

 

Mộ Dung Phong quay đầu lại nhìn, cười vì gọi một tiếng “Dì”, hỏi “Dì tư đến lúc nào thế?”. Tĩnh Uyển đã đứng dậy, thấy quý phu nhân đó khoảng hơn ba mươi tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, đôi mắt thanh tú dưới hàng lông mày đen, dường như có thể câu hồn đoạt phách, chưa nói đã tươi cười. Tĩnh Uyển nghe thấy cách xưng hô của Mộ Dung Phong, cô đoán là Hàn thị tứ phu nhân được yêu chiều nhất lúc Mộ Dung Thần còn sống, mọi việc Mộ Dung gia đều do bà chủ trì, phân nữa thân phận là bà chủ gia đình, vì thế Mộ Dung Phong rất tôn trọng bà. Lúc bà nắm lấy tay Tĩnh Uyển, cẩn thận dò xét cô một lượt, mới trả lời câu hỏi của Mộ Dung Phong: “Dì đến từ lúc nào hả? Chính là lúc hai người nâng khay ngang mày, làm bộ làm tịch đó”.

 

Mộ Dung Phong biết rõ bà hiểu nhầm, nhung không hiểu vì sao trong lòng rất hài lòng, chỉ cười ầm ờ: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân đáp: “Dì đang định về nhà, đi ngang qua đây, từ xa đã thấy cảnh vệ đứng từ cửa kịch viện đến tận phố, dì biết ngay cậu ở đây,cho nên đến xem xem”. Vì bà là trưởng bối cho nên Tĩnh Uyển rất khách sáo, đích thân bưng chiếc ghế bên cạnh đến nói: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân “ôi chao” một tiếng, cứ cười đến mức đôi mắt như ánh trăng đang chảy, luôn miệng nói: “Không dám, không dám”. Tĩnh Uyển giờ mới phát giác ra mình lỡ lời, ngại đến mức chỉ muốn độn thổ. Mộ Dung Phong thấy tính cảnh này, liền nói chen vào: “Kịch đang hay, dì nghe hết rồi về cùng chúng con nhé”. Tứ phu nhân là một người rất nghịch ngợm, thấy thế thuận miệng đáp: “Đúng thế, kịch đang hay, hai người từ từ nghe đi, dì đánh mạt chược cả ngày rồi muốn về nghỉ ngơi, không ở đây để người ta ghét đâu”. Tĩnh Uyển nghe từng câu chữ mang hai nghĩa đó của bà, bản thân lại nói sai một câu, chỉ yên lặng không nói. Mộ Dung Phong thấy mặt cô ửng đỏ, xinh đẹp rung động lòng người, tron lòng không nỡ để cô khó xử, cười nói: “Dì không chịu tha cho chúng con phải không? Kịch trên sâu khấu hay như vậy, dì cũng không chịu nghe mà muốn giễu cợt con?”

Tứ phu nhân nhoẻn miệng cười, nói: “Dì đi, dì đi ngay đây”. Đi đến cửa phòng, bà lại quay lại nhìn, cười nói: “Hai đứa từ từ nghe kịch đi”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không kịp nói yêu em – Chương 5

Chương 5

Mặt anh kề sát mặt cô, nên cô nhìn rõ đôi chân mày rậm của anh. Với ánh mắt sắc bén nhìn thẳng vào mặt cô, tuy anh vô cùng kinh ngạc vì tình cảnh này rất khó xử, trong ánh mắt anh hiện lên vẻ ngượng ngùng khó nói, nhưng trong giây lát, sự ngượng ngùng đó đã được thay bằng vẻ mặt rất ung dung, ánh mắt sắc bén đó vẫn dò xét cô, dường như muốn tìm cái gì đó trên mặt cô. Cô cũng cố gắng nhớ lại bức ảnh xem hôm trước, nhưng ảnh chụp trên báo nhìn không rõ, cô nhìn anh thật kỹ, cũng không dám chắc anh có phải là Mộ Dung Phong không. Hơi thở ấm nóng của anh phả lên mặt cô, bây giờ cô mới phát hiện tư thế của hai người cực kỳ mờ ám, dẫu sao cô vẫn là một tiểu thư, bất giác đỏ mặt tía tai, đưa tay ra đẩy anh nói: “Ối, anh mau đứng lên”.

 

Anh cũng tỉnh táo lai, vội vàng buông tay ra, vừa mới đứng dậy, bỗng nghe thấy tiếng bước chân lộn xộn bên ngoài cửa. Rõ ràng có người đi về phía bên này, tiếp theo có người gõ cửa rầm rầm gọi: “Cậu Sáu! Cậu Sáu!”. Người bên ngoài cửa đều cười ha ha, nghe giọng nói xem chừng có khoảng ba, bốn người. Chỉ nghe thấy một giọng nói sang sảng: “Cậu Sáu, lần này bị chúng tôi bắt được rồi nhé, mới uống được một nửa đã bỏ chạy, không nể mặt anh em chúng tôi quá rồi”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, cơ thể hơi động đậy, anh sợ cô đi mở cửa, bất ngờ đưa tay ra che miệng cô, nói nhỏ: “Đừng làm ồn”. Anh xuất thân quân ngũ, ra tay rất mạnh, Tĩnh Uyển bị anh bịt miệng đến suýt nghẹt thở, vội vàng gật đầu tỏ ý đã hiểu, anh mới buông tay ra.

 

Loáng thoáng nghe thấy bên ngoài có người nói: “Mấy vị thống chế không ăn cơm ở nhà trên, chạy đến đằng sau này làm gì vậy?”. Giọng nói sang sảng lúc trước cười haha, nói: “Đào tư lệnh không biết đấy thôi, mới uống được một nửa, Cậu Sáu lại mượn cớ bỏ trốn, mãi vẫn không quay lại, chúng tôi tìm đến đây, nhất định phải mời cậu ấy về để phạt cậu ấy một hũ rượu”.

 

Đào tư lệnh chính là Đào Đoan Nhân – anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong, tư lệnh đóng giữ Thừa Châu, anh ta là nhân vật lợi hại ra sao, giờ cũng biết được tiền đồ mở rộng thế nào, anh ta chỉ mỉm, chỉ nói: “Đây là một căn phòng bỏ không, bình thường không có người ở, Quan thống chế có gọi nửa này cũng không có ai thưa đâu, Cậu Sáu chắc chắn không ở đây, chỉ bằng các vị đi chỗ khác tìm xem”.

 

 

Quan thống chế tuy là người thô lỗ, nhưng lăn lộn trong hai giới quân đội chính trị nhiều năm nay, đối nhân xử thế rất khéo léo, thấy Đào Đoạn Nhân đã nói vậy, không muốn làm mất mặt chủ, liền cười cười nói: “Vậy chúng tôi đi chỗ khác tìm”. Đi được hai bước, bỗng nhiên anh ta cười hì hì dừng chân, quay đầu lại nói: “Không được, Đào tư lệnh, hôm nay là ngày vui của tam tiểu thư, trong phủ đông người, chúng ta không thể để người khác lẻn vào, chẳng may có kẻ xấu làm kinh động đến khách quý thì làm sao?”, lại cất cao giọng, gọi: “Người đâu!”.

 

Một tùy tùng của anh ta liền “dạ” một tiếng, chỉ nghe thấy Quan thống chế nói: “Đem khóa đến đây, khóa cửa này lại rồi đưa chìa khóa cho Đào tư lệnh giữ”. Lời nói chưa dứt, mấy người đều cười ầm lên, ai cũng vỗ tay khen hay. Đào tư lênh tuy thấy hơi bất hợp lý, nhưng mấy vị thống chế này đều là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, từ nhỏ nhìn Mộ Dung Phong lớn lên, bình thường đùa với anh quen rồi, huống hồ bây giờ có tí hơi men, đành cười nhìn tên hầu đó lấy một chiếc khóa lớn khóa cửa lại. Quan thống chế cầm lấy chìa khóa, tận tay tha vào túi áo Đào tư lệnh, vỗ nhè nhẹ túi áo nói: “Đào tư lệnh, đây đã là căn phòng bỏ không, chắc bên trong cũng chẳng có đồ gì quý giá, đương nhiên giờ cũng không dùng đến chiếc chìa khóa này, chúng ta đi uống rượu thôi”.Dứt lời anh ta nói cười với mấy thống chế khác, ồn ào kéo Đào tư lệnh đi.

 

Tĩnh Uyển ở trong phòng nghe thấy họ đã đi xa, đi lên phía trước đẩy cửa bên ngoài thật chặt, sao có thể đẩy ra được chứ? Cô quay đầu lại nhìn Mộ Dung Phong, anh vẫn rất bình thản, cười cười với cô: “Thật xin lỗi, lúc nãy tôi nhận nhầm người, mạo phạm quá rồi!”. Cô chỉ nói: “Đâu có”. Vừa dứt lời liền cảm thấy không ổn, nhưng nếu giải thích chỉ e càng nói càng rối, trong phòng chỉ bật một chiếc đèn nhỏ, cô đứng trước cửa sổ, cửa sổ treo một tấm rèm nhung màu vàng, trong ánh sáng lờ mờ, nhìn nó giống như màu xanh, càng làm nổi bật chiếc sườn xám màu trắng bạc của cô, những nếp gấp ánh lên lấp lánh, trong cô như bông hoa lan trên cành, lay động trong màn mưa mênh mang. Anh bỗng động lòng, buột miệng nói: “Là cô?”.

 

Cô sững sờ một lát: “Đúng… là tôi”.

 

Dáng vẻ anh vẫn rất ung dung, cười nói: “Chúng ta đây là duyên phận gì chứ, sao mỗi lần gặp cô đều là lúc thảm hại nhất của tôi. Trong lòng cô rối bời, nhất thời không biết nói gì, anh đi lại đẩy đẩy cửa, làm sao đẩy nổi, anh không kìm được nói: “ Đám người này có tí rượu vào là đùa nghịch không biết trời đất là gì?” Thấy cô nhìn mình, anh lại cười cười, an ủi cô: “Đừng lo, lát nữa sẽ có người đến thả chúng ta ra”. Thấy cô hình như hơi thấp thỏm không yên, anh nghĩ lại, rồi đi bật hết mấy chiếc đèn trong phòng, xung quanh bỗng nhiên sáng rõ, anh thấy đôi mắt trong veo như nước hồ thu long lanh của cô nhìn anh, ánh mắt ấy chuyển động trong vắt như gương.

 

Lại nói đến Đào Đoan Nhân quay về phòng tiệc lớn phía trước, uống vài ly rượu mấy vị thống chế rồi nhân lúc người khác không để ý, vẫy tay gọi một tùy tùng đến, khi anh ta lén lấy chìa khóa ra đưa cho người đó, bỗng một bàn tay thò vào túi, ấn chìa khóa xuống. Đào Đoan Nhân ngẩng đầu lên nhìn, chính là Quan thống chế, anh ta cười ha ha nói với Đào Đoan Nhân: “Đào tư lênh vội gì chứ?”.

 

Đào Đoan Nhân nói: “Đùa đủ rồi, đừng đùa nữa”. Quan thống chế cười hà hả, thấp giọng nói: “Bây giờ Cậu Sáu ở trong căn phòng đó e rằng còn sung sướng hơn nhiều so với chúng ta bị chuốc rượu ở đây”. Đào Đoan Nhân cười một tiếng, đáp: “Đùa là đùa, nhốt mãi như thế còn ra gì chứ?” Một vị thống chế khác cầm một hũ rượu đến, tự mình rót một chén cho Đào Đoan Nhân nói: “Đào tư lệnh yên tâm, vẫn còn sớm mà, hiếm có hai ngày rảnh rỗi này, để Cậu Sáu thoải mái nghỉ ngơi đi”. Người khác cũng mồm năm miệng mười đến chuốc rượu khuyên bảo, Đào Đoan Nhân không có cách nào, đành cùng họ càn quấy tiếp.

 

Mộ Dung Phong cứ tưởng không quá một tiếng đồng hồ sẽ có người đến, ai ngờ mãi lâu, trời tối dần, xung quanh vẫn yên lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng cười nói văng vẳng ở nhà trên, Mộ Dung Phong đi lại hai bước trong phòng, kéo rèm cửa lên xem, lại quay qua nhìn Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển nghĩ, cứ bị nhốt ở đây như vậy cũng sẽ khó xư, cứ tiếp tục thế này, cũng chẳng tiện nói gì, nói: “Cậu Sáu cứ tự nhiên”.

 

Cô vốn không có ý gì nhưng vừa nói ra, bản thân cũng cảm thấy rất ngại, anh cũng không nhịn được cười, nói: “Tuy trèo cửa sổ ra rất dễ dàng, nhưng tôi luôn thất lễ trước mặt tiểu thư”. Cô nói: “Tùy cơ ứng biến, có gì mà thất lễ chứ”. Anh nghe cô trả lời thoải mái, trong lòng nghĩ đám thống chế này tửu lượng đều cao, nếu uống đến mức ai ai cũng say như chết, mình thật sự bị nhốt ở đây một đêm thì còn ra thể thống gì? Anh đưa tay lên đẩy cửa sổ ra, thấy xung quanh không có ai, hai tay ấn lên bệ cửa, liền nhảy qua cửa sổ, chạm đất không tiếng động.

 

Anh quay đầu lại nói với Tĩnh Uyển: “Cô đợi ở đây một lát, tôi gọi người đến mở cửa”. Tĩnh Uyển thấy anh định quay người đi, trong lòng rất lo lắng. Cô khó khăn lắm mới gặp được anh, anh đi rồi, muốn gặp lại càng khó hơn, vậy lại buột miệng nói: “Không, tôi đi với anh”. Cô thấy một chiếc ghế đẩu nhung trước bàn dài dưới cửa sổ, bê đến giẫm lên, có điều tà dưới của sườn xám hơi chật, làm sao có thể nhảy cửa sổ ra như anh? Cô không nghĩ gì, liền xé tà dưới sườn xám, chỉ nghe một tiếng “xoạc”, chỗ xẻ của sườn xám đã rách ra. Anh thấy cô giẫm lên cửa sổ, trong lòng rất hốt hoảng, đưa tay ra theo bản năng muốn đỡ lấy, cô lại không để ý, thuận theo cửa sổ nhảy xuống, nhanh nhẹn lanh lẹ rồi đứng vững, lại lấy khăn tay phủi phủi bụi sau tà váy, vẻ mặt điềm nhiên như chỉ là mới vươn người hái nhành hoa, ngẩng đầu lên nở một nụ cười rất đẹp với anh.

 

Anh cố gắng kìm chế không nhìn về phía vết rách đó, chỉ là trong lòng thấy kỳ lạ, sợ không quản nổi ánh mắt mình, đành ho một tiếng nói: “Mời tiểu thư đi bên này”. Tĩnh Uyển lúc này mới nói nhỏ: “Tôi họ Doãn, Doãn Tĩnh Uyển”. Anh “ừ” một tiếng, đưa tay ra nói: “Doãn tiểu thư hân hạnh”. Tay cô rất lạnh,anh nhớ lại lúc nhỏ mình cầm chiếc dùi bằng ngọc Dương Chi để niệm Phật của mẹ, nắm trong lòng bàn tay cũng lành lạnh như thế, giống như hễ lơi là sẽ tuột xuống đất vỡ nát nên luôn cố gắng giữ thật cẩn thận. Anh thấy bộ đồ của cô đã hỏng, như thế này cũng không thể gặp ai, trong lòng liền có tính toán.

 

Anh đi phía trước, Tĩnh Uyển rớt sau anh hai ba bước, không biết anh đưa mình đi đâu, từ vườn hoa đó men theo hành lang rẽ mấy lần, lại đi qua rất nhiều sân, đằng sau lại là một căn nhà nhỏ kiểu Tây, trước căn nhà đó có một bóng đèn điện sáng trắng, chiếu vào một cây liễu rất lớn, gió đêm thổi qua, hàng ngàn chiếc lá rủ xuống lan can nhỏ màu đỏ, như tranh như hoa.

 

Tĩnh Uyển không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh, Mộ Dung Phong đi vào phòng, gọi một tiếng: “Chị ba”. Hóa ra đây là nơi ở của Mộ Dung tam tiểu thư, anh nghĩ rằng lúc này chị ba đang tiếp khách ở phía trước, ai ngờ vừa đúng lúc Mộ Dung tam tiểu thư về phòng thay đồ, nghe thấy giọng anh, vội vàng đi từ trên lầu xuống, thấy là hai người bọn họ, chưa nói gì đã nhoẻn miệng cười. Mộ Dung Phong cũng chẳng ngờ chị mình lại ở đây, chỉ định gọi người hầu đem một bộ quần áo đếnn, lúc này đành nói với chị: “Chị ba bảo người đem một bộ quần áo đến để cô ấy thay trước đi”. Trên trần nhà của căn phòng đó treo bốn chiếc đèn chùm thủy tinh rất lớn, Mộ Dung tiểu thư nghe thấy câu này, liền nhìn về phía người Tĩnh Uyển, lập tức thấy vết rách dài ở tà dưới, không thể nhịn nổi, nét cười chầm chậm lộ nơi khóe mắt: “Chị có một bộ sườn xám mới may, mặc hơi chật, vẫn chưa đem đi sửa. Doãn tiểu thư gầy hơn chị, chắc sẽ mặc vừa”. Cô gọi người làm dẫn Tĩnh Uyển đi thay quần áo, Tĩnh Uyển đi hai bước, bỗng nhiên nhớ ra, quay đầu lại nói với Mộ Dung Phong: “Phiền anh đợi tôi một lát, tôi còn có chuyện muốn nói với anh”.

 

Mộ Dung Phong còn chưa đáp lại: “Mộ Dung tam tiểu thư đã phì cười, vỗ tay Tĩnh Uyển nói: “Em yên tâm đi đi, chị thay em trông nó, đảm bảo nó không đi đâu được hết”. Tĩnh Uyển thấy cô nói vậy, biết rõ cô đã hiểu nhầm, nhưng chuyện này cũng không dễ biện bạch, đành cười cười trước, rồi đi thay quần áo.

 

Lúc cô thay xong quần áo đi ra, chỉ thấy một mình Mộ Dung Phong ngồi ở đó hút thuốc, xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả người hầu cũng không biết đi đâu. Anh thấy cô đi ra, tiện tay dập điếu thuốc xuống gạt tàn, anh tuy xuất thân từ gia đình kiểu cũ, nhưng cũng là nhân vật thời thượng trong xã hội thượng lưu, hiểu các lễ tiết phương Tây, anh đứng dậy kéo ghế giúp cô, cô cảm ơn ngồi xuống, đang do dự mở lời như thế nào, anh đã hỏi: “Doãn tiểu thư là người Càn Bình phải không?”.

 

Trong lòng Tĩnh Uyển vốn rối loạn cực độ, thấy Mộ Dung Phong nhìn mình, tuy anh là nhân vật nắm đại quyền trong tay, nhưng vị trẻ tuổi nên không hề đem lại cho người khác cảm giác hung hổ dọa người, ngược lại cô thấy ánh mắt rất ôn hòa, do đó ôn tồn nói: “Cậu Sáu, thật không muốn giấu, tôi đến là có việc muốn cầu xin”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng nói: “Tôi vốn nợ ân cứu mạng của Doãn Tiểu Thư, có gì xin hãy nói thẳng đừng ngại!”. Tĩnh Uyển liền nói rõ sự việc với anh, sau đó nhìn anh không chớp mắt, anh hơi chau mày, lập tức nói: “Doãn tiểu thư, cô từng giúp tôi lúc nguy nan, đại ân đó suốt đời không quên. Nhưng việc này thứ lỗi tôi thật sự không thể đồng ý với cô”.

 

Cô vốn còn ôm chút hy vọng, nghe anh từ chối thẳng thừng như vậy, trong mắt không kiềm được lộ ra ánh nhìn đau lòng, tuyệt vọng. Anh cảm hấy rất có lỗi, hỏi: “Doãn tiểu thư, thật vô cùng xin lỗi, tôi quả thật bất lực”.Cô “ừ” một tiếng nói: “Ngay cả anh cũng đã bất lực, vậy thì thật sự không có cách nào rồi”.

 

Tuy anh chỉ gặp cô vài lần, nhưng đã cảm thấy cô gái trước mặt thật nhanh nhẹn, thẳng thắn không hề tầm thường, là một người quyết đoán, không thua kém đấng mày râu. Bây giờ nhìn cô tuyệt vọng, mới thấy được vẻ yếu đuối của con gái, khiến người ta không nén nổi thương xót, nghĩ lại một lát, lại nói: “Thế này đi, cô ở lại đây hai ngày, tôi sắp xếp đưa cô đi dạo xung quanh, nếu có chuyện gì khác tôi có thể giúp, xin hãy cứ nói”. Cô lắc đầu nói: “Ngoài chuyện này, tôi không có việc gì muốn nhờ anh giúp nữa”.

 

Trong chốc lát, căn phòng chìm trong yên lặng, rất lâu sau, anh mới hỏi: “Vị Hứa tiên sinh đó, chắc là người thân của Doãn tiểu thư phải không?”. Tĩnh Uyên nói: “Anh ấy là vị hôn phu của tôi”. Anh lại im lặng, một lát sau nói: “Tôi rất xin lỗi, hy vọng Doãn tiểu thư có thể hiểu được khó khăn của tôi”. Tĩnh Uyển khẽ gật gật đầu nói: “Tôi hiểu, anh muốn khống chế mười một sư đoàn chín tỉnh, quả thật không dễ dàng. Huống hồ trong hai phe phái, phe bao thủ hành động mưu đồ, lúc này anh không thể đi sai một bước”. Cô hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt lạnh tanh: “Tôi chỉ nghĩ đó là điều đương nhiên, anh mới hai mươi lăm tuổi, con nối nghiệp cha, những thuộc cấp dưới quyền chắc chắn có công cao hơn chủ, nén giận không phúc, xúi bẩy đến xem trò cười, nếu không phải anh mới đánh thắng một trận, e rằng người không phục còn nhiều hơn. Từ xưa đến nay, trên thế giới này sự việc cũng chỉ thế mà thôi”.

 

 

Không kịp nói yêu em – Chương 4

Chương 4

Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.

 

Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.

 

Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.

 

Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.

 

Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ (*) của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.

(*) Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.

 

Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.

 

Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.

 

Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.

 

Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.

 

Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.

 

Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.

 

Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.

 

Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.

 

Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.

 

Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.

 

Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.

 

Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.

 

Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.

 

Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.

 

Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.

 

Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.

 

Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.

 

Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ânGiấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.

 

Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.

 

Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.

 

Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.

 

Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.

 

Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (*), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (**), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.

(*) Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)

(**) Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)

 

Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.

 

Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.

 

Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải  làm thế nào.

 

Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.

 

 

 

Phu quân là thái giám tổng quản – 111

Chính văn Chương 111: Vực Tương Tư

Editor: Mèomỡ

(https://bjchjpxjnh.wordpress.com/)

Nhìn rừng hoa Tử Vi, liền muốn xuống núi. Trên đường xuống núi, Cầu Mộ Quân đột nhiên dừng bước, chỉ vào một con đường khác nói:“Chỗ kia đi đâu ngươi biết không?”


Thích Ngọc Lâm nói:“Đó là đường đến vực Tương Tư, trước kia ta từng đưa Vi Vi đến đó.”


Cầu Mộ Quân nghe được hai chữ “Tương Tư”, liền cảm thấy chỗ đó hẳn là một nơi rất đẹp, nói:“Bây giờ chúng ta qua đó được không?”


“Được.” Thích Ngọc Lâm nắm tay nàng nói:“Ta đưa nàng đi.”


Vực Tương Tư cũng không xa, chỉ đi khoảng nửa canh giờ là đến, Cầu Mộ Quân cũng thấy được vách núi có cái tên xinh đẹp kia.


Hai người đứng ở bên vách núi, nhìn xuống cảnh tượng mờ ảo dưới chân núi, Thích Ngọc Lâm nói:“Nàng có biết vì sao nơi này gọi là Vực Tương Tư không?”


Cầu Mộ Quân thấy còn có nguyên nhân, liền lập tức hỏi:“Vì sao?”


Thích Ngọc Lâm nói:“Thật lâu trước kia, có một tiểu thư nhà Huyện thái gia yêu một công tử trong thành. Nhưng vị kia công tử kia lại chưa bao giờ thèm nhìn nàng lấy một cái. Nàng ngày đêm đau lòng, lại không dám nói ra tình cảm trong lòng, chỉ chờ đợi ông trời có thể cho nàng cùng vị kia công tử một tia duyên phận. Nhưng ông trời vẫn không nghe được cầu xin của nàng. Sau đó, Huyện thái gia đính thân cho vị tiểu thư đó, hôn kỳ gần đến, cửa hàng tơ lụa trong thành đưa tơ lụa dùng cho lúc xuất giá đến cho tiểu thư chọn. Tiểu thư mở tơ lụa ra, nhưng lại thấy bên trong có một câu thơ: ‘Kiếp trước chưa có duyên, chờ kiếp sau như nguyện.’ Đúng là bút tích của vị công tử kia. Tiểu thư sau khi nghe ngóng mới biết được tơ lụa này đúng là nhà vị công tử kia đưa tới. Tiểu thư kia vô cùng vui sướng, lập tức tìm lý do xin cha mẹ lùi việc hôn nhân, chờ công tử kia tới cầu thân. Nhưng một ngày lại một ngày, một tháng lại một tháng, vị công tử kia vẫn không tới cầu hôn, cũng không đưa tin đến cho nàng nữa.


Sau đó, công tử kia lại thành thân cùng một vị tiểu thư nhà bán tơ lụa lớn hơn. Tiểu thư nhà Huyện thái gia vô cùng đau đớn, lại nghĩ chắc là vị công tử kia vì phát triển gia nghiệp, miễn cưỡng mình thành thân cùng người khác. Tiểu thư quyết định không gả tiếp tục chờ vị công tử kia, một năm lại một năm, chung thủy với nguyện vọng trong đáy lòng. Sau công tử kia có con, sau đó thê tử của hắn lại bệnh mà qua đời. Tiểu thư nghĩ cuối cùng hắn có thể lấy mình, nhưng công tử kia lại cưới người khác. Tiểu thư lại đau lòng thêm một lần nữa, nhưng vẫn tin công tử kia yêu mình, nàng vẫn luôn giữ gìn câu thơ kia, vẫn chờ, đến tận lúc qua tuổi năm mươi.


Có một năm, tiểu thư đi du xuân, tới trên núi Nhạn Lai này, lúc đó nơi này còn chưa gọi là “Vực Tương Tư”, ở đây nàng ngoài ý muốn gặp được vị công tử nàng đã chờ cả nửa đời.


Ngày đó, vị tiểu thư kia rốt cục nhịn không được hỏi hắn yêu nàng vì sao không cưới nàng? Nếu như không yêu nàng, vì sao trước lúc nàng xuất giá lại đưa câu thơ kia đến cho nàng?


Công tử nhìn thơ, suy nghĩ hơn nửa ngày, mới nói, đó không phải đưa cho nàng. Lúc trước hắn cũng không biết nàng, chỉ không cẩn thận làm cho câu thơ tùy tay viết loạn kia rơi vào trong tấm tờ lụa đó, không ngờ tơ lụa lại bị người ta đưa đến nhà Huyện thái gia.


Tiểu thư ruột gan đứt từng khúc, cầm thơ nhảy từ trên bờ vực xuống. Tiểu thư đợi người yêu cả đời, kết quả lại phát hiện tất cả chỉ là sự hiểu lầm. Bởi vì chuyện xưa này thật đẹp, rất đau lòng, cho nên mọi người liền đổi tên nơi này thành ‘Vực Tương Tư’.”


Nghe xong chuyện xưa của Thích Ngọc Lâm, Cầu Mộ Quân chảy xuống hai hàng lệ.


“Tất cả chỉ là hiểu lầm……” Những lời này quanh quẩn thật lâu bên tai, thoáng chốc làm cho lòng nàng cũng tràn đầy đau xót. Vị tiểu thư kia là nhìn thơ của người yêu nên nghĩ hắn cũng yêu nàng, vậy còn nàng thì sao?


Nàng mở miệng hỏi, hỏi hắn có yêu nàng hay không có, đổi lại chỉ là một tiếng cười lạnh của hắn. Nhưng sao nàng vẫn không chịu từ bỏ ý định.


Vì sao? Bởi vì hắn hôn nàng vài cái, mắng nàng vài câu sao?


Thật ra nàng đã sớm ở đáy vực sâu đã sớm không thoát ra được rồi. Không biết từ lúc nào, nàng đã bị tình yêu của nàng nhốt vào nơi vạn kiếp bất phục*.


*Vạn kiếp bất phục: Muôn đời muôn kiếp không trở lại được


Mặt trời chiều ngả về phía tây, rặng mây đỏ đầy trời chiếu lên bóng dáng cô đơn của nàng bên vách núi. Cầu Mộ Quân bước từng một đi về phía vách đá, nước mắt dọc theo khuôn mặt chảy xuống, rơi xuống đất.


Thích Ngọc Lâm nhìn bóng hình cô đơn xinh đẹp dưới ánh chiều tà, nhìn hai hàng lệ trong suốt trong mắt nàng, thất thần, ngơ ngác đứng tại chỗ.


Bầu trời bao la như vậy, nàng lại nhỏ bé như thế, rặng mây đỏ kia dường như sẽ lập tức cắn nuốt nữ tử xinh đẹp hơn nó, vực sâu không đáy kia dường như đang giương miệng chờ đợi một giọt lệ hồng nhan.


Hắn đột nhiên thức tỉnh, quát to một tiếng “Mộ Quân!” Chạy lên kéo Cầu Mộ Quân cách vách núi đen chỉ còn vài bước, ôm chặt nàng vào trong lòng.


“Mộ Quân…… Nguy hiểm……” Hồi lâu, hắn vừa sợ hãi vừa nói ra những lời này. Cầu Mộ Quân ôm lấy hắn, ở trong lòng hắn khóc thành tiếng.


“Đừng sợ, có ta.” Thích Ngọc Lâm nói bên tai nàng.


Nước mắt Cầu Mộ Quân không ngừng rơi, nằm ở trong lòng hắn vẫn khóc, giống như đứa bé ở bên ngoài bị bắt nạt mà chạy về nhà ôm lấy mẫu thân. Thích Ngọc Lâm không đành lòng nàng như vậy, rốt cục nói:“Thật ra…… Chuyện xưa vừa rồi…… Là lừa nàng thôi.”


Tiếng khóc dần dần nhỏ đi, Cầu Mộ Quân từ trong lòng hắn ngẩng đầu lên, nhìn hắn.


Thích Ngọc Lâm hổ thẹn nói:“Cái kia…… Là ta nói bừa, nàng không thấy chuyện xưa này nghe qua rất gượng ép sứt sẹo sao?”


Cầu Mộ Quân nhìn hắn nửa ngày, lau lau nước mắt, đi thẳng xuống núi.


Thích Ngọc Lâm vội đuổi theo nàng nói:“Thực xin lỗi, ta chỉ muốn bịa chuyện xưa động lòng người, cho nàng chút cảm xúc thôi, không ngờ nàng sẽ đau lòng đến vậy.”


Cầu Mộ Quân vẫn không để ý tới hắn, tiếp tục đi về phía trước, Thích Ngọc Lâm giữ chặt nàng mạnh mẽ ôm thắt lưng nàng nói:“Là ta sai rồi, ta lừa nước mắt của nàng, nàng đánh ta đi, đánh đến mức ta khóc, để ta đem nước mắt trả lại cho nàng.”


Cầu Mộ Quân hỏi:“Đánh ngươi ngươi sẽ khóc sao?”


“Sẽ không.” Thích Ngọc Lâm thành thật trả lời.


“Vậy làm thế nào ngươi mới có thể khóc?”


Thích Ngọc Lâm bắt lấy tay nàng nói:“Nàng không để ý tới ta, ta sẽ một mình khóc trong đêm.”


Cầu Mộ Quân đẩy hắn ra xoay người đi:“Ta không để ý tới ngươi.”


“Đừng mà!” Thích Ngọc Lâm vội giữ nàng lại:“Ta chỉ muốn đền nước mắt cho nàng, không muốn đền cả trái tim này. Nhưng nếu nàng không để ý tới ta, sẽ làm cho ta tan nát cõi lòng, làm cho ta ngay cả trái tim đều đưa cho nàng. Khi đó, ta sẽ lại tìm nàng đòi lại trái tim, đền đến đền đi như vậy, oan oan tướng báo, chúng ta chẳng phải sẽ dây dưa mấy đời mấy kiếp sao? Tuy rằng ta nguyện ý cùng nàng ước hẹn mấy sinh mấy thế, nhưng ta không muốn mấy sinh mấy thế này chúng ta cứ nợ trả như vậy, chi bằng đem duyên phận mấy đời đều lưu đến kiếp này, làm cho chúng ta Chấp tử tay, cùng tử giai lão, qua cả đời.”


Cầu Mộ Quân cúi đầu yên lặng, sau đó nói:“Ai muốn cùng ngươi trọn đời trọn kiếp, mấy thế mấy đời!” Nói xong lại đi trước, bước chân lại thả chậm rất nhiều.


Thích Ngọc Lâm theo tới bên cạnh nàng nói:“Ta.”


Cầu Mộ Quân cúi đầu, nhịn không được cười lên một tiếng.

Không kịp nói yêu em – Chương 3

Chương 3

Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương chơi đến tận tối, xem xong phim mới về, đến nhà đã mười giờ hơn. Doãn gia vì làm ăn với người nước ngoài, ít nhiều học được chút phong cách phương Tây, Tĩnh Uyển tuy là một tiểu thư, nhưng buổi tối mười giờ về nhà cũng là bình thường. Bác Ngô nghe thấy tiếng còi xe đã ra ngoài đón lấy túi xách. Tĩnh Uyển đi vào, thấy trong phòng vẫn sáng đèn nên hỏi: “Mẹ cháu đã ngủ chưa?”.

 

Bác Ngô nói: “Bà Triệu và Tôn nhị phu nhân, còn cả bà Tần đến đánh bài”. Tĩnh Uyển nghe nói có khách, bèn đi vào phòng, quả nhiên thấy trong phòng khách kiểu Tây bày một bàn mạt chược, bà Tần ngồi nhìn ra cửa, ngẩng đầu lên nhìn thấy cô, nói: “Đại tiểu thư về rồi”. Cô tươi cười gọi một tiếng: “Bác Tần”. Cô lại chào bà Triệu và Tôn nhị phu nhân rồi đứng sau lưng mẹ xem bài. Doãn phu nhân hỏi: “Ăn tối chưa? Nhà bếp đang chuẩn bị chút điểm tâm đấy”. Tĩnh Uyển nói: “Buổi tối con ăn đồ Tây, bây giờ vẫn không thấy đói”. Doãn phu nhân nói: “Cha con ở trong phòng đọc sách, nói con về thì vào gặp ông ấy”. Tĩnh Uyển vâng lời liền đi ra.

 

Cô vừa đi đến cửa phòng đọc sách, liền ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc, nói: “Cha, cha coi chừng cháy nhà đấy”. Ông Doãn Sở Phàn vẫn luôn cưng chiều cô con gái này, thấy cô về, liền cười, nói: “Con bé này, chỉ biết nói linh tinh”. Bỗng nhiên nhớ ra một chuyện, ông liền nghiêm mặt nói: “Cha muốn hỏi con một chuyện đây”. Nhìn vào con gái, ông nói: “Lúc chiều số hàng đã về tới nơi, cũng thuận lợi nhưng sao con kẹp bốn thùng thuốc Tây ở giữa? Chẳng may bị soát ra, thì làm sao?”.

 

Tĩnh Uyển nghe thấy ông hỏi chuyện này, vẫn không lo lắng hốt hoảng, nói: “Con nghe Kiến Chương nói, chỗ anh ấy rất thiếu thuốc Tây, dù sao là đi một chuyến rất xa, con liền đem về giúp anh ấy một ít”. Doãn Sở Phàn không kìm được nói: “Con nói quá ngây thơ, chẳng may bị lục soát ra sẽ phải ngồi tù, con thật là trẻ con không biết trời cao đất dày, Kiến Chương nhìn người lớn, hóa ra làm việc cũng hồ đồ, sao có thể để con làm việc này?”.

 

Tĩnh Uyển nghe ông nói vậy, vội vàng biện bạch: “Chuyện này không liên quan đến anh Hứa chút nào, là con tự mình quyết định, đến bây giờ anh ấy còn chưa biết, cha muốn mắng thì mắng con ấy, không liên quan đến người khác”. Doãn Sở Phàn vốn dĩ rất tức giận, thấy hai mắt con gái nhìn mình lo lắng đến muốn khóc, ông chỉ có một cô con gái, chẳng lẽ nỡ đánh mắng thật sao? Không kìm được liền mềm lòng, hừ một tiếng nói: “Con phải chịu khổ mới hiểu được tốt xấu”. Ông lại nói tiếp: “Nếu Kiến Chương biết, nhất định cũng sẽ giáo huấn con một trận, con cứ đợi mà xem”.

 

Ngày hôm sau Hứa Kiến Chương nghe thấy việc này, quả nhiên nói với cô: “Em cũng quá liều lĩnh rồi, chuyện này chẳng may bị phát hiện không phải là chuyện đùa đâu”. Tĩnh Uyển mỉm cười, nói: “Làm sao có thể bị phát hiện được, mỗi lần anh nhập hàng, không phải đều rất thuận lợi sao?”. Hứa Kiến Chương nói: “Sao có thể so sánh như thế chứ, em là một cô gái”. Tĩnh Uyển liền bĩu môi ra, nói: “Trong thâm tâm anh vẫn khinh thường con gái, trước đây anh khen em còn hơn đàn ông, hóa ra đều là giả”. Hứa Kiến Chương thấy cô hơi tức giận, biết cô xưa nay thích mềm mỏng, nên chỉ có thể nói lý lẽ với cô, do đó nhẹ nhàng nói: “Em biết anh không có ý đó, bình thường anh đi nhập hàng, đều là qua cửa có người quen nhiều năm, lấy được giấy phép của quân đội, trên đường đều có người coi sóc, đương nhiên không có người soát, em làm việc tùy tiện như thế, nguy hiểm lắm”.

 

Tĩnh Uyển thấy anh nói có lý, lại thấy khuôn mặt lo âu của anh, chung quy là vì lo lắng cho bản thân mình, nên nói: “Làm sao em biết ở giữa có đường dây chứ, coi như em sai rồi”. Bản tính cô bướng bỉnh, không dễ dàng nhận sai, nói như vậy coi như đã nhận lỗi, Hứa Kiến Chương cũng chỉ cười nói: “Em cũng là có lòng tốt, vốn là nghĩ cho anh”. Cô cũng liền cười, nói: “Anh biết là được rồi”.

 

Hai người họ nói chuyện trong phòng khách, giọng nói hơi nhỏ, Doãn phu nhân đích thân bưng lên món điểm tâm hình tim của phương Tây, thấy đôi trai gái đang tâm tình, nhoẻn miệng cười, lại lặng lẽ lui xuống, quen chân liền đi đến phòng sách ở sau vườn, ông Doãn Sở Phàn đang đeo kính lão xem sổ sách, thấy vợ bưng điểm tâm vào, giả giọng kịch nói: “Cảm phiền phu nhân, hạ quan xin nhận”. Doãn phu nhân chau mày: “Xem ông kìa, trong nhà có khách, nếu bị nhìn thấy thì ra cái gì?”. Ông Doãn Sở Phàn nói: “Không phải là Hứa Kiến Chương đến rồi sao? Tôi tới chào hỏi một câu”. Doãn phu nhân nói: “Bọn trẻ đang nói chuyện, ông đi ra làm phiền gì chứ, hơn nữa cậu ta tới nhà ta suốt, lại là bề dưới, ông không ra cũng chẳng thất lễ”. Liền gọi người làm rót trà, cùng chồng ăn điểm tâm ở phòng sách. Doãn Sở Phàn ăn hai miếng bánh, lại châm thuốc, Doãn phu nhân nói: “Tính khí Tĩnh Uyển không tốt, làm khó cho Kiến Chương phải nhường nhịn nó, huống hồ chúng ta lại nhìn chúng nó trưởng thành, hai nhà biết rõ nguồn gốc. Ôi, chỉ đáng tiếc cha của Kiến Chương qua đời quá sớm, chuyện kinh doanh Hứa gia đều do cậu ta lo liệu, đứa trẻ này quả thật là người già dặn khôn khéo hiếm có. Lần trước Hứa phu nhân nửa thật nửa giả, bóng gió nói chuyện cưới xin với tôi, tôi chỉ ậm ừ qua loa cho xong”. Doãn Sở Phàn gõ gõ đầu thuốc vào gạt tàn, nói: “Tĩnh Uyển còn ít tuổi, trước mắt quan hệ hai đứa tuy rất tốt, nhưng phải đợi đến năm sau, đợi Tĩnh Uyển qua sinh nhật mười tám tuổi mới được đính hôn”.

 

Mấy ngày sau, Doãn phu nhân đến Hứa phủ đánh bài với Hứa phu nhân, tìm cơ hội nói chuyện riêng, khéo léo để lộ ra ý đó, Hứa phu nhân sớm đã nhắc khéo đến hôn sự, nay nhận được đáp án xác thực, đương nhiên hết sức vui mừng. Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cũng lờ mờ biết được ý của cha mẹ, hai nhà họ tuy là gia đình kiểu cũ, nhưng bây giờ có chút tác phong phương Tây, cha mẹ đã chịu ủng hộ như thế, hai người đương nhiên cũng vui mừng.

 

Thời gian dần trôi, đó là thứ dễ dàng qua đi nhất. Xuân đi thu đến, chớp mắt đã là Tết Âm lịch, qua tháng Giêng, thời tiết ấm dần, hoa đỏ lá xanh, mùa xuân lại về. Hứa gia và họ Doãn sớm đã bàn bạc, nghe ý kiến của hai trẻ, ấn định tổ chức lễ đính hôn theo kiểu Tây vào tháng năm, nhưng hai nhà Hứa – Doãn đều là đại gia tộc, người thân bạn bè đông đảo, việc phải chuẩn bị đương nhiên cũng rất nhiều, từ giữa tháng tư đã bắt đầu mua sắm thêm đồ đạc, lên danh sách khách mời, Hứa gia sơn sửa vôi ve nhà trong nhà ngoài.

 

Hứa gia buôn bán thuốc, cuối tháng tư đúng là lúc bắt đầu bệnh dịch, thời kỳ dược liệu cháy hàng. Hàng năm vào lúc này, Hứa Kiến Chương sẽ tự mình đến phía Bắc nhập hàng, năm nay vì việc riêng trong nhà, vốn định gọi mấy người bạn làm ăn cũ đi, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh vừa mới đình chiến, tình hình dần ổn định, Hứa Kiến Chương sợ trên đường xảy ra sai sót gì, cuối cùng vẫn quyết định tự mình đi một chuyến.

 

Tĩnh Uyển nghe nói vào lúc này anh còn phải đi xa, tuy không nỡ nhưng cũng không có cách nào, huống hồ mình luôn tôn trọng anh tuổi trẻ có triển vọng, một mình gánh vác đại nghiệp của gia đình, cho nên tuy lưu luyến, cuối cùng vẫn không ngăn cản. Trước khi Hứa Kiến Chương đi một ngày, Doãn phu nhân bày tiệc rượu tại nhà để tiễn anh, Tĩnh Uyển vốn là người rất thích náo nhiệt, hôm đó lại buồn bã không nói, chỉ cúi đầu ăn cơm. Doãn phu nhân gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương, miệng nói: “Tĩnh Uyển là như thế, tính khí trẻ con, một lát nữa là ổn thôi”. Hứa Kiến Chương nhìn Tĩnh Uyển, thấy cô gẩy từng hạt cơm, dáng vẻ lại giống như rất hốt hoảng, trong lòng rất không nỡ. Ăn xong, người làm đem trà lên, Doãn phu nhân mượn cớ, liền cùng ông Doãn Sở Phàn rời đi.

 

Hứa Kiến Chương thấy Doãn Tĩnh Uyển cầm tách trà thủy tinh nhưng không uống, chỉ nhìn lá trà bên trong tách dập dềnh dập dềnh. Anh ho nhẹ một tiếng, nói: “Tĩnh Uyển, em có trách anh không?”. Tĩnh Uyển nói: “Sao em có thể trách anh chứ, dù sao chỉ là hai tuần, anh lại quay về rồi”. Anh đưa tay ra, nắm lấy tay Tĩnh Uyển, nói: “Em đừng lo lắng, tuy mới đánh nhau xong, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh đánh nhau nhiều năm như vậy, chúng ta vẫn kinh doanh rất tốt đấy thôi”.

 

Tĩnh Uyển nói: “Em biết cả mà”. Trong phòng khách chỉ bật một chiếc đèn tường, ánh sáng yếu ớt chiếu vào chiếc sườn xám lụa màu chu sa của cô, cô có một đôi mắt rất sáng, dưới ánh đèn, đôi mắt đó lay động như nước, chỉ ngân ngấn lệ nhìn anh, anh cảm thấy trái tim mình đập thình thịch, không kìm được bàn tay nắm hơi mạnh, cô đi giày cao, đứng không vững, cơ thể nhào về phía trước, liền bị anh ôm vào trong lòng, nụ hôn nóng bỏng ập đến, trong lòng cô rối như tơ vò. Tuy họ qua lại đã lâu, Hứa Kiến Chương lại là người lễ tiết kiểu cũ, ngoài nắm tay ra không dám tùy tiện mạo phạm cô. Nụ hôn ngày hôm nay rõ ràng là do tình cảm rối loạn, cả cơ thể cô mềm đi, chỉ cảm thấy cảm giác này xa lạ đến cực điểm, mùi hương bạc hà nhàn nhạt đó lại thân thuộc đến vô cùng, cảm thấy giống như đã mơ một giấc mơ, lâu dài như trời đất, mà cũng giống như khoảnh khắc thoáng qua, anh đã buông tay ra, giống như hơi hối hận, lại càng giống như thích thú, trong đôi mắt tình cảm sâu đậm vô hạn, đắm đuối nhìn cô.

 

Cô liền tựa đầu vào ngực anh, anh vỗ nhè nhẹ lên vai cô, nói nhỏ: “Nửa tháng sau là anh về thôi mà, nếu thuận lợi, mười ngày sẽ xong cũng nên”.

 

Ngày hôm sau anh khởi hành, vừa đến Thừa Châu, liền đánh điện về báo bình an, mấy ngày sau lại gửi một bức điện báo về, Tĩnh Uyển thấy mấy chữ ít ỏi trên bức điện, viết rằng: “Công việc thuận lợi, sáng mùng chín tháng năm lên tàu về Càn Bình”. Cô cũng hết lo lắng.

 

Đến ngày mùng tám tháng năm, cô định sáng sớm hôm sau đến bến tàu đón Hứa Kiến Chương, cho nên đi ngủ rất sớm. Nhưng tối mùa xuân, thời tiết ngột ngạt, trong bình hoa cắm bó hoa hồng và hoa huệ lớn, mùi hương nồng gắt, khiến người ta nhất thời không ngủ được, cô trằn trọc trên giường một lúc lâu, cuối cùng mơ màng thiếp đi.

 

Trong chốc lát lại dường như đứng trong phòng khách rộng lớn, bốn bề không có một ai, xung quanh chỉ là một khoảng tĩnh lặng. Tuy cô xưa nay can đảm, nhưng nhìn nơi trống trải đó trong lòng cũng hơi sợ hãi. Bỗng nhiên thấy có người đi lại từ phía bên kia, rõ ràng là Kiến Chương, cô chạy lên kéo gấu áo anh, hỏi: “Kiến Chương, sao anh không để ý đến em?”. Người đó quay đầu lại, nhưng hóa ra không phải là Kiến Chương, mà là một khuôn mặt xa lạ rất hung ác, cười độc địa: “Hứa Kiến Chương không sống được rồi”. Cô quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy ngoài cửa hai lính hộ vệ đang kéo Hứa Kiến Chương, trên người anh toàn là máu, hai lính hộ vệ kéo anh giống như kéo một túi đồ, trên đất toàn là dấu máu, trên nền gạch xanh hiện lên một vệt đen sẫm, cô đuổi theo, hai lính hộ vệ đó đi rất nhanh, chớp mắt đã không thấy ba người, cô hốt hoảng òa khóc, chỉ nắm lấy người đó kêu lớn: “Anh trả Kiến Chương cho tôi, anh trả Kiến Chương cho tôi”.

 

Cô đau đớn khóc thất thanh như thế, bỗng chốc tỉnh dậy chỉ thấy xung quanh yên ắng, trong phòng bật một chiếc đèn nhỏ, ánh sáng xuyên qua chiếc rèm hạt ngọc trai, rõ ràng là trong phòng ngủ của mình, chỉ nghe thấy tiếng tích tắc tích tắc của chiếc đồng hồ để bàn trên đầu giường, mới biết hóa ra là ác mộng. Nhưng vẫn còn khóc thút thít, tim đập thình thịch, cả người đã toát mồ hôi lạnh đầm đìa, chiếc áo ngủ lụa mỏng ướt đẫm dính vào người, cảm giác thật lạnh lẽo. Cô nhớ lại tình cảnh trong mơ, nó đáng sợ đến cực điểm, trong lòng sợ hãi chầm chậm cuộn vào trong chăn, nói với bản thân: “Là nằm mơ, hóa ra chỉ là nằm mơ, may mà chỉ là nằm mơ”. Cô tự an ủi mình như thế, lát sau lại mơ màng ngủ thiếp đi.

 

Cô nửa đêm ngủ không ngon, nhưng sau đó lại ngủ rất sâu, đang lúc ngủ ngon, bỗng nhiên nghe thấy mẹ gọi tên mình, vội vâng lời ngồi dậy, mặc áo vào, Doãn phu nhân đã đẩy cửa, trên tay cầm một bức điện báo, khuôn mặt vô cùng lo lắng, chỉ nói: “Tĩnh Uyển, con không được lo lắng đấy, Kiến Chương xảy ra chuyện rồi”. Chiếc áo cô đang mặc một nửa, vừa mới xỏ một ống tay áo vào, nghe mẹ nói câu này như sét đánh giữa trời quang, cả người đờ đẫn.

 

Thuốc Tây vốn là mặt hàng bị cấm vận nhất của Thừa quân, nhưng Hứa gia kinh doanh thuốc nhiều năm, có giao hảo với rất nhiều nhân vật quan trọng trong Thừa quân, những năm trở lại đây làm ăn luôn thuận lợi, không ngờ Mộ Dung Phong vừa mới dẫn quân dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, quay lại liền chỉnh đốn nghiêm ngặt, mà mặt hàng bị nhắm vào nhất chính là thuốc Tây. Mộ Dung Phong thiếu niên đắc chí, làm việc sấm rền gió cuộn, vừa bắt tay vào việc này, lập tức đem một nguyên lão trong Thừa quân ra xử lý, vị nguyên lão đó bị cách chức xét xử, sau đó từ trên xuống dưới, bắt tất cả những người bị nghi có liên quan đến việc vận chuyển trái phép thuốc Tây, Hứa Kiến Chương bị liên lụy, người và hàng vừa mới ra khỏi Thừa Châu đã bị bắt lại giam giữ, hiện tại bị nhốt trong nhà giam, không rõ sống chết.

 

Doãn phu nhân vốn nghĩ Tĩnh Uyển sẽ khóc, không ngờ cô không hề khóc, ánh mắt tuy hốt hoảng, một lúc sau liền dần dần trấn tĩnh lại, hỏi: “Bác Hứa biết rồi ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Bức điện báo này chính là bà ấy bảo bà Hà đưa đến, nghe bà Hà nói, Hứa phu nhân đã rất hoảng loạn, chỉ biết khóc thôi”.

 

Hứa Kiến Chương tuy có hai người em trai, nhưng tuổi đều còn nhỏ, việc lớn trong nhà đều do anh quyết định, sự việc này xảy ra Hứa gia mất đi trụ cột, đương nhiên rối như tơ vò. Tĩnh Uyển “ồ” nhẹ một tiếng, hỏi: “Cha con nói thế nào ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Cha con vừa mới nghe tin, liền đi gặp tổng tham mưu trưởng Vương, mong là có thể nghĩ được cách nào đó”.

 

Vị tổng tham mưu trưởng Vương mà Doãn Sở Phàn đi gặp vốn là người của Thừa quân, hiện tại là tổng tham mưu trưởng tài vụ ở nội các, nghe ý của Doãn Sở Phàn, không nói gì, liên tục lắc đầu nói: “Nếu là việc khác đều dễ nói, nhưng sự việc hiện tại, dù anh ta là ai, chỉ sợ trước mặt Cậu Sáu cũng không nói được. Ông ít nhiều đã từng nghe nói tính khí người đó, đã nói một là một, hai là hai, năm đó lúc đại soái còn sống, cũng chỉ có đại soái có cách với cậu ta, bây giờ cậu ta đang chấn chỉnh việc cấm vận, chỉ sợ đang giết để răn đe, trước mắt không thể đi vuốt râu hùm được, tôi khuyên ông về trước, đợi qua đợt này sự việc bình ổn lại, hãy nghĩ cách”.

 

Doãn Sở Phàn nghe đến đây, quả thật không có cách cứu vãn, đành thất vọng đi về.Tĩnh Uyển thấy cha phân tích từng quan hệ tốt xấu, chỉ lặng lẽ không nói. Doãn Sở Phàn an ủi cô nói: “Tuy vận chuyển trái phép thuốc Tây là trọng tội quân sự, nhưng Hứa gia có giao hảo với rất nhiều người trong Thừa quân, tính mạng Kiến Chương chắc không phải lo lắng, đến lúc đó tốn thêm chút tiền đút lót, của đi thay người vậy”. Cô vẫn im lặng không nói, trong lòng lo lắng, cơm trưa cũng không ăn liền về phòng mình.

 

Cô biết cha an ủi mình, ngồi trước bàn trang điểm, mà tâm trạng cứ thấp thỏm bất an. Vừa hay trước bàn trang điểm có đặt một tờ báo từ mấy ngày trước, trên báo đăng tin Mộ Dung Phong dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, trong bức ảnh chụp buổi duyệt binh ở Bắc đại bản doanh, người đó cưỡi ngựa, dáng vẻ anh tuấn hiên ngang, đúng là một anh hùng trác việt phi phàm giữa vạn quân. Người này trẻ như vậy, đã tay nắm nửa giang sơn, không ngờ là nhân vật lợi hại hơn cả cha anh ta, cách làm việc của anh ta quả có cứng rắn hơn người. Mộ Dung Phong đã hạ quyết tâm phải chính đốn cấm vận, khó mà không giết để răn đe, Kiến Chương va phải họng súng của anh ta, chỉ e là lành ít dữ nhiều.

 

Cô sững sờ nhìn tờ báo đó, bỗng nhìn thấy lời dẫn của một cụ già trong nội các, nói là “Mộ Dung Bái Lâm thiếu niên anh hùng”, trong lòng bất ngờ, chỉ cảm thấy hai từ “Bái Lâm” đó vô cùng quen thuộc, giống như mình đã thấy ở đâu, nhưng không nhớ ra. Cô ngồi ở đó cố gắng suy nghĩ, bỗng nhiên một tia sáng lóe lên, cô kéo ngăn bàn ra, lật tìm xung quanh mà không tìm thấy.

 

Cô mở hết tất cả ngăn kéo ra, cuối cùng tìm thấy chiếc đồng hồ vàng đó ở ngăn kéo phía dưới tủ quần áo, mở ra xem, trên nắp hai chữ “Bái Lâm” rành rành. Cô liền tựa vào tủ quần áo, trong lòng đã có tính toán, chỉ nghĩ bất kể phải hay không phải, bất kể có được hay không cũng phải cố gắng hết sức thử xem sao.

 

Không kịp nói yêu em – Chương 2

Chương 2

Giới nghiêm toàn thành Thừa Châu thêm vào tổ chức tang lễ, quả thật hơi có vài phần khiến người ta lo sợ. Họ ở trong quán trọ, ngoài ăn cơm, không hề xuống lầu, Doãn Tĩnh Uyển quá buồn chán, liền ở trong phòng chơi bài với Minh Hương. Mộ Dung Phong quả nhiên làm việc quyết đoán dứt khoát, trong vài ngày liền quân đội hùng hậu áp sát, ép Dĩnh quân không dám manh động, hai bên giằng co vài ngày, tình thế thật sự dần dần yên ổn trở lại.

Tuy vậy, Doãn Tĩnh Uyển vẫn nghe theo lời chú Phúc, chỉ chọn mua một nửa số hàng vận chuyển đi trước, còn họ quay về Càn Bình. Thành Càn Bình vốn dĩ là cố đô của triều trước, bây giờ tuy không còn là khu vực dẫn đầu, nhưng vẫn là bảo vật tinh hoa, là thành phố phồn thịnh, tất nhiên không giống với những địa phương lân cận.

Họ Doãn là gia tộc danh giá ở quận Càn Bình, đại tộc trâm anh mấy đời, sau này dần dần lụn bại. Căn nhà này của họ từ lúc ông cố bỏ nghiệp văn theo nghề buôn bán, nên mới phồn thịnh trở lại, đến đời Doãn Sở Phàn cha của Doãn Tĩnh Uyển, thì việc làm ăn càng lớn, chỉ là ít con cái có mỗi cô con gái nên Quý Như Ngọc, được nuôi như con trai, lần này tự cô muốn đến phía Bắc, cha mẹ không cản được, đành đồng ý. Nhận được điện báo của cô, họ đã phái lái xe đến bến tàu đón.

Doãn gia nhà cao cửa rộng xây theo kiểu cũ, con đường xi măng mới láng thông thẳng đến tận trong khu nhà, bác Trương, người làm chăm hoa lan đằng sau cổng vòm, vừa nhìn thấy ô tô đi vào, liền kêu ầm lên: “Đại tiểu thư về rồi”. Bác Ngô, bác Lý trong nhà trên đều chạy ra đón, hớn hở giúp cô xách hành lý, lại dìu cô đi vào. Doãn gia vốn là khu nhà cũ, nhà trên mới sửa, khung cửa sổ bằng kính lớn trong suốt sáng lóa hướng về phía Nam, cô vừa bước vào, nhìn thấy mẹ đang bước từ gian trong ra, ánh nắng chiếu vào bộ sườn xám gấm màu xanh ngọc mẹ cô đang mặc, ánh lên chữ Thọ nhỏ thêu bằng chỉ bạc, tuy cô không nhìn rõ vẻ mặt của mẹ, nhưng trong lòng mừng rỡ vô hạn, cô cất tiếng gọi: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Con về rồi đó à”, rồi kéo tay cô với vẻ thương xót, chăm chú nhìn cô một lượt, lại nói: “Cha con luôn oán trách, nói ông ấy đã chiều con quá, chiến tranh loạn lạc, con gái một thân một mình chỉ sợ con xảy ra chuyện”. Doãn Tĩnh Uyển thấy cha cũng đã đi ra, tươi cười rạng rỡ nói: “Có thể xảy ra chuyện gì chứ, không phải là con yên ổn trở về rồi sao?”. Doãn Sở Phàn vốn đang hút tẩu thuốc, lúc này mới nở một nụ cười, nói: “Về là tốt rồi, về là tốt rồi”.

Lần đi xa này, tuy có chút hoảng sợ nhưng may không nguy hiểm, người nhà vô cùng lo lắng, thấy cô trở về bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, cô vốn du học nước ngoài về, bản thân cảm thấy trên thế giới không có gì là không thể, chút nguy hiểm này chỉ coi như là truyền kỳ thú vị, trước mặt cha mẹ ngậm miệng không nói, chỉ chọn những tin thú vị trên đường đi để kể, Doãn phu nhân thì không nói gì ông Doãn Sở Phàn nghe thấy, cũng hơi tán thưởng. Doãn phu nhân liền quở trách: “Xem ông chiều nó kìa, tối qua còn oán trách hôm nay lại tha cho nó”. Đang nói chuyện, bác Ngô bên cạnh bước lên hỏi: “Số va ly đại tiểu thư mang về, nên thu dọn thế nào đây?”.

Bấy giờ Doãn Tĩnh Uyển nhớ ra, nói: “Con đem rất nhiều đồ về đấy. Đồ da ở phương Bắc rẻ lắm, mẹ, con mua cho mẹ tấm da rái cá hàng cao cấp, đủ làm một chiếc áo khoác”. Cô bảo người lấy chiếc va ly lớn nhất ra, mở từng cái cho cha mẹ xem, ông Doãn Sở Phàn thấy bên trong có một hộp gấm, tiện tay mở ra, hóa ra là một củ nhân sâm già rất tốt, liền nói: “Lần sau đừng đem đồ này về, nguy hiểm lắm”. Doãn Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Con chỉ đem một củ nhân sâm về, chẳng lẽ có thể nói con vận chuyển thuốc lậu chắc?”. Tiếp đó cô lấy ra một hộp giấy in hoa nổi, nói: “Con cũng đem đồ về hộ Kiến Chương này”. Doãn phu nhân mắng yêu: “Thật không lễ phép, ngay cả một tiếng anh cũng không gọi, Kiến Chương này Kiến Chương nọ, người ta nghe thấy thì ra gì chứ”. Mẹ cô còn nói: “Anh Hứa của con nghe nói hôm nay con về, bảo chiều sẽ đến thăm con đấy”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy, vặn vặn người, nói: “Con rất ổn, cần anh thăm làm cái gì”.

Doãn phu nhân cười không nói, Doãn Tĩnh Uyển khiến bà cười đến rũ ra, cô lại hơi quở trách một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Mau đi tắm rửa thay quần áo, lát nữa ăn cơm”.

Đi vào một sân vườn, mới là phòng ngủ của Doãn Tĩnh Uyển, bác Ngô đã chuẩn bị sẵn nước tắm cho cô, Minh Hương giúp cô thu dọn một ít hành lý lặt vặt đem về. Tắm xong, Minh Hương đã giúp cô đặt đồ trang sức lên bàn trang điểm, cô ngồi xuống chải tóc, bỗng nhiên nhìn thấy chiếc đồng hồ quả quýt đó được đặt trên bàn, viên đá nhỏ trên nắp lấp lánh xinh đẹp dưới ánh đèn. Cô biết đây chính là đồng hồ của Patek Philippe(*), giá không rẻ, có lẽ anh muốn dùng nó để cảm ơn? Trên tàu thời gian vội vã không xem kỹ liền cất đi, lúc đó cảm thấy chiếc đồng hồ này cực kỳ tinh xảo, dựa vào ánh đèn chỉ nhìn thấy trên nắp có khắc một hàng chữ màu vàng, đưa ra trước đèn hóa ra là hai chữ “Bái Lâm”. Cái tên này quen quen, hình như đã nghe thấy ở đâu, bỗng nhiên Minh Hương nói: “Đại tiểu thư, Hứa thiếu gia đến rồi”. Trong lòng cô mừng rỡ, vội vã nhét chiếc đồng hồ vào ngăn kéo, lại soi gương sửa tóc, rồi mới đi ra.

Hứa Kiến Chương đang nói chuyện với Doãn Sở Phàn trong phòng khách, sắc trời tối dần, trong phòng khách bật đèn tường, Tĩnh Uyển nhìn thấy hình bóng quen thuộc đứng trước cửa sổ, nhanh nhẹn như cây ngọc trước gió, có lẽ là đi ra quá vội, tim cô cứ đập thình thịch. Hứa Kiến Chương đã nhìn thấy cô, hơi gật đầu cười nói: “Tĩnh Uyển xa nhà một chuyến, cũng ra dáng người lớn rồi”. Tĩnh Uyển vênh mặt lên, nói: “Em vốn dĩ là người lớn mà, chẳng lẽ em vẫn là trẻ con sao?”. Cô vừa quở mắng vừa giận dỗi, bông hoa tai ngọc phỉ thúy hình chiếc lá thu sàn sạt cọ vào cổ áo, Doãn phu nhân nói: “Con bé này không biết lớn bé gì, may mà anh Hứa của con không phải người ngoài, làm gì có ai nói móc như con hả?”. Bà nói tiếp: “Nói chuyện với anh Hứa của con đi, mẹ đi xem xem cơm chuẩn bị thế nào rồi”.

Bà đứng dậy đi xem người làm thu dọn phòng ăn, Doãn Tĩnh Uyển thấy ông Doãn Sở Phàn cũng mượn cớ bỏ đi, liền cười nói với Hứa Kiến Chương: “Em mang về cho anh một hộp xì gà”. Hứa Kiến Chương thấy cô thay Âu phục, màu ráng chiều rất nhạt, dưới ánh đèn, cô mềm mại xinh đẹp như một bông hoa rẻ quạt, liền hỏi nhỏ vặn lại: “Không phải em bảo anh đừng hút thuốc sao?”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy anh nói vậy, cũng không kìm được cười tươi, dừng lại một lát mới nói rằng: “Trên đường em cứ nghĩ, thực ra mùi thuốc lá cũng rất dễ chịu”.

Anh nghe thấy cô nói như vậy, cũng không nhịn được cười.

Hai nhà Hứa – Doãn vốn có quan hệ nhiều đời, Doãn phu nhân giữ Hứa Kiến Chương ở lại ăn cơm, nói chuyện đến rất muộn mới về. Sáng sớm hôm sau, Doãn phu nhân vừa dậy thấy Tĩnh Uyển đã dậy rồi, nói: “Sao không ngủ thêm chút nữa?”. Tĩnh Uyển vội vàng đáp: “Anh Hứa hẹn con đi xem chợ hoa”. Doãn phu nhân biết đôi trẻ này tiểu biệt trùng phùng, tất nhiên sẽ có chỗ đi của chúng, cũng chỉ cười không hỏi.

Hứa Kiến Chương tự mình lái xe đến đón cô, cô vừa lên xe anh liền hỏi: “Em ăn sáng chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Vẫn chưa”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh biết ngay là chưa mà, em thích ngủ như vậy, hiếm khi dậy sớm như hôm nay, chắc chắn không kịp ăn rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Không hỏi việc ăn uống thì lại nói em thích ngủ, anh coi em là gì hả?”. Hứa Kiến Chương thấy cô có ý quở trách, ánh mắt lưu chuyển có một cảm giác lay động lòng người, cười nói: “Anh chuộc lỗi với em, có được không? Hôm nay anh đưa em đi ăn một món đảm bảo em chưa từng ăn”.

Xe men theo con phố dài đi về phía Nam, sau đó lại rẽ về phía Tây đi rất lâu, đi qua con phố nhỏ, cuối cùng dừng lại ở một con ngõ, Hứa Kiến Chương nói: “Chỗ này cách chợ hoa cũng gần, chúng ta đi bộ qua đó nhé, tiện đường ăn sáng”. Tĩnh Uyển theo anh xuống xe, thật ra vẫn còn rất sớm, trong ngõ tĩnh lặng, cửa ngõ có hai cây hòe già, hoa hòe rơi đầy đất, người giẫm lên, nát vụn đi không thành tiếng. Hứa Kiến Chương đi phía trước, Tĩnh Uyển bỗng nhiên gọi anh: “Kiến Chương”. Anh quay mặt lại, ánh mặt trời chiếu đúng vào mặt anh, ánh sáng như vụn vàng, mày mắt thanh tú, trong lòng cô trào lên cảm giác hơi ngọt ngào, giống như con gió sớm lướt qua, nhè nhẹ mềm mềm, anh đã đưa tay ra, cô khoác lấy cánh tay anh, gió sớm hơi lạnh, nhưng mang theo mùi hương hoa hòe ngào ngạt.

Đi ra khỏi ngõ là một con phố xiên, trên phố có hàng ăn nhỏ, bán bún Qua Cầu Vân Nam(*). Cô chưa từng đến ăn ở cửa hàng kiểu này, quả nhiên thấy rất mới mẻ, bún được đưa lên, lại có bốn đĩa thịt, cá, đậu Hà Lan, đậu phụ được thái rất mỏng. Cô vừa cầm đũa lên gắp, bỗng nghe Kiến Chương nói: “Cẩn thận bỏng”. May mà anh cảnh báo, nếu không thì cô bị bỏng thật, không ngờ bát canh không hề bốc hơi lại có thể nóng như vậy, cô nhúng chín từng miếng cá, miếng thịt để ăn, lát sau trên mặt đã lấm tấm mồ hôi, lấy khăn tay ra lau, thấy trên trán Kiến Chương cũng vậy, cô liền đưa khăn tay cho anh, anh chỉ mỉm cười nhận lấy. Bên ngoài ánh nắng rất đẹp, ở phía xa xa người quét rác cầm chiếc chổi lớn, quét phố soạt soạt, âm thanh truyền đến đứt quãng, giống như có người cầm chiếc lông nhẹ nhàng quét qua tai, ngứa ngứa dễ chịu, ánh mặt trời màu vàng nhàn nhạt chiếu vào bức tường trắng nhà đối diện, chỉ thấy xung quanh đều tĩnh lặng, như năm tháng lặng lẽ.

Chợ hoa mùa xuân vốn rất náo nhiệt, đến mùa này mà họ lại đi sớm, cảm thấy hơi quạnh quẽ. Rất nhiều chủ sạp vẫn chưa bày hoa ra, hai người men theo con phố đi về phía trước, ngắm nghía cả đường, lan Hạ Sơn đã qua mùa, không có nhiều chủng loại, cả chợ hoa đều là hoa lựu đúng mùa, có một loại lựu nhiều lá cánh kép, nụ hoa chi chít xen giữa tán lá màu xanh, giống như chiếc nút vải đỏ cộm lên, lúc hoa nở chắc hẳn giống như hàng vạn ngọn đuốc rực cháy, còn cả cúc Tây Dương, từng bông hoa trắng như thủy tinh, vô cùng đẹp đẽ.

Hứa Kiến Chương biết cô thích náo nhiệt, cùng cô xem cây thuốc, lại mua một bình hoa lựu cánh kép, nói: “Cái này tuy nhỏ bé, để vào phòng em sẽ rất hợp, đợi hoa nở nhất định rất đẹp”. Bản thân cô cũng chăm chú chọn một bình hoa trà, Hứa Kiến Chương thấy buồn cười: “Chúng mình đúng là ngốc, bao nhiêu hoa do thợ trồng hoa trồng, lại còn muốn mua thêm về”. Cô cũng thấy buồn cười, nói: “Đi cùng anh, cứ luôn làm việc ngốc nghếch như thế”.

Họ đi ra từ chợ hoa, lại đi về phía Kỳ Ngọc Trai xem đồ cổ thư họa, Hứa Kiến Chương vốn là khách quen, người làm ở Kỳ Ngọc Trai đương nhiên tiếp đãi chu đáo, vừa ngồi xuống, pha trà thượng hạng trước lại thêm bốn đĩa điểm tâm, mới mỉm cười nói: “Hứa thiếu gia đến thật đúng lúc, vừa có một chiếc nghiên rất đẹp”. Người đó lại nói: “Doãn tiểu thư đã lâu không đến nơi nhỏ này rồi”, rồi hỏi thăm quý phủ, rất chu đáo lễ phép. Người làm lấy mấy thứ ra cho Hứa Kiến Chương xem trước, Tĩnh Uyển uống nửa tách trà, thấy người làm trên quầy đang kiểm tra vài đồ ngọc cổ, trong đó có một chuỗi ngọc màu đỏ, sắc đỏ tươi thắm, mờ ảo như có ánh sáng rực rỡ lưu chuyển, cô không kìm được nhìn chăm chú. Người làm thấy vậy vội cầm đến cho cô xem kỹ. Người đó thấy cô thích, đứng bên cạnh nói: “Doãn tiểu thư thật có mắt nhìn, đồ như thế này vốn là đồ trong cung, qua tay nhiều người cho đến nay, giá tiền không quan trọng, nếu Doãn tiểu thư thích cũng coi như là có duyên”.

Hứa Kiến Chương thấy cô có vẻ khá thích thú, liền nói với người làm: “Cậu nói giá đúng đi, lát nữa đến lấy tiền”. Người làm vâng một tiếng, rồi ra quầy hỏi giá. Tĩnh Uyển có tính khí đại tiểu thư, nghe nói là đồ trong cung, biết rằng chắc chắn không rẻ nhưng thật sự rất thích, cũng không hỏi bao nhiêu tiền, mừng rỡ lấy xuống thử. Soi soi chiếc gương bằng gỗ cây lê mang phong cách cổ trên bàn, hôm nay cô mặc bộ Âu phục màu đỏ anh đào, cổ áo hình tim nho nhỏ, đeo chuỗi ngọc đó lên, khiến làn da trắng như tuyết, ánh sáng viên ngọc lấp lánh, nhìn vào gương càng thích hơn. Bỗng nhiên nghe Hứa Kiến Chương nói bên tai: “Có giống đậu đỏ không?”.

Cô vốn không cảm thấy, nghe thấy lời anh nói trong lòng ngẫm lại, thấy thật ngọt ngào, khi thấy hai khuôn mặt tươi cười trong gương, ở đó như có gió xuân thổi vô hạn.